Chuyển đến nội dung chính

[Sci-fi tiếng Anh] Ngày thứ Hai đen tối

 Truyện vẫn đang được dịch tiếp tốc độ khoảng 2 ngày 1 chương. Ta sẽ cập nhật thường xuyên

Một thứ dịch bệnh sẽ cướp đi sinh mạng hàng triệu con người.

Một thứ dịch bệnh sẽ phá hủy các quốc gia.

Một thứ dịch bệnh sẽ đưa thế giới về những đêm trường Trung cổ.

Một thứ dịch bệnh mà không làm ai ốm…

Khi những chiếc máy bay đầu tiên tự nhiên rơi xuống- ở châu Âu, Cali, châu Á – người ta đổ trách nhiệm vào những tên khủng bố. Tất cả các chuyến bay được lệnh cấm cất cánh còn các nhà lãnh đạo thế giới cố gắng tìm hiểu xem những vụ tấn công khắp nơi kia đã được phối hợp như thế nào. Và rồi, khi xe cộ, tàu bè, và các nhà máy cũng ngừng hoạt động, người ta hiểu ra rằng đầu mối chung của các sự kiện là xăng dầu. Không hiểu bằng cách nào, một loại vi sinh nhân tạo có thứ gen chuyên phá hủy hydrocacbon, đã lây nhiễm được vào nguồn cung cấp dầu thô trên toàn thế giới. Không có xăng dầu, thế giới loài người dần quay về thời kỳ của những đêm trường Trung cổ.

Bác sĩ (BS) Gregory Gillette, một chuyên gia dịch tễ tại Trung tâm Phòng chống Dịch Bệnh (Center for Disease Control, hay CDC), là một người chuyên săn tìm các bệnh dịch bởi vi sinh tấn công con người. Được Lầu Năm Góc đưa tên vào nhóm Lực lượng phản ứng nhanh (Rapid Response Team, hay RRT) để tìm diệt loại vi khuẩn nguy hiểm Delta-3 này , anh nhanh chóng nhận ra khả năng chuyên môn của mình cũng như sự hiện diện của anh đều không được quan tâm đến. Lãnh đạo của nhóm RR, người từng có thù hằn với Gillette, đã gạt anh sang một bên.

Gillette quay trở về nhà tại thủ đô Washington. Anh chứng kiến những cảnh tượng hãi hùng khi thức ăn trở nên khan hiếm, láng giềng tấn công lẫn nhau, rồi chính quyền sụp đổ. Mùa đông đã sắp đến gần, thủ đô nước Mỹ trở nên cực kỳ hỗn loạn và Gillette phải đối mặt với hai lựa chọn: hoặc ở lại cùng gia đình của mình, hoặc làm trái lệnh cấp trên, đi tìm cách giải trừ loại vi khuẩn chết người kia dựa theo những manh mối mỏng manh.




Ngày thứ Hai đen tối

Tác giả: Scott Reiss



Chương I (phần I)
Ngày 27 tháng Mười, 6 giờ trước khi bệnh dịch bùng nổ

Dịch: lostintranslation
Nguồn: www.tangthuvien.com
Ngày 27 tháng Mười, 6 giờ trước khi bệnh dịch bùng nổ

Một thứ dịch bệnh sẽ cướp đi sinh mạng hàng triệu con người. Một thứ dịch bệnh sẽ phá hủy các quốc gia. Một thứ dịch bệnh sẽ đưa thế giới ngập trong đêm trường Trung cổ.

Một thứ dịch bệnh mà không làm ai ốm…

Lewis Stokes – hay đúng hơn chỉ là cái tên giả trên bằng lái xe bang Nevada của hắn – nhét thêm một đồng đôla nữa vào chiếc máy “Chiếc nón kỳ diệu ”(1) ở trong đại sảnh của khách sạn New York-New York, Las Vegas và cảm thấy tim hắn đập nhanh, nhưng không phải bởi cái trò chơi giật máy này. Hắn – từng là một đứa trẻ ăn xin, mẹ bị tử hình giữa chợ – đã nhận ra tên sinh viên hăm hai tuổi, chuyên khoa tiếng Anh của trường Đại học bang Nevada mà hắn phải bay hơn vạn cây số đến đây … để giết.

Thằng bé đó – tóc đen, luộm thuộm- đang đi len lỏi về phía hắn, qua những bàn chơi blackjack hướng về phía khu tiếp tân. Nó đang uống một thứ nước đỏ tươi trong cái cốc thủy tinh dài cả thước, có lẽ là Singapore Sling hay hỗn hợp rượu rum và nước quả. Thằng bé có vẻ đã ngà say, vô thức, và chỉ có một mình.

Thằng bé này phải bị giết chết trước 12:14 đêm nay

“Chứ không phải 1 phút sau đó,” cha đỡ đầu của hắn đã nói vậy khi người đưa cho hắn những giấy tờ thông hành giả được làm cực kỳ tinh xảo.

Lewis căng chân đứng lên, định đi theo. Nhưng hắn chợt nhận ra thằng bé kia quá cao để có thể là Robert Grady.

Nó trông giống Robert Grady mà thôi.

Lewis rủa thầm rồi lại tiếp tục rút một tờ đôla khác vào trong máy.

Bình thường, hắn là một tay tóc vàng điển trai. Lần này, hắn đóng giả thành một trung niên hói, tóc đen. Bình thường gầy ốm, giờ hắn có vẻ nặng nề và vụng về với cái túi bao quanh bụng và cặp kính gọng đen. Dáng người hắn lụp xụp và đi cà nhắc. Một vài người nhìn về hắn hẳn sẽ nghĩ rằng đó là một tên lập dị, với chiếc áo khoác thể thao loại rẻ tiền.

Chơi mấy cái máy nhét xu này giúp hắn có thể ngồi quan sát khu tiếp tân, hoàn toàn vô hình với những tay trực cửa, nhân viên và thám tử của khách sạn. Chỉ là một trong số hàng trăm kẻ đánh bạc mà thôi. Nhưng dưới lớp áo khoác của kẻ đánh bạc này là một khẩu súng lục Glock, chưa kể một con dao K-bar lưỡi răng cưa giắt sau lưng. Lewis giết người lần đầu tiên ở tuổi 12, trong một trường hợp tự vệ, ở trong một cái lều.

“Chiếc ...nón ...kỳ ...diệu,” vang lên những âm thanh loảng xoảng từ chiếc máy hắn đang ngồi, trong lúc chiếc vòng xoay phía trên và những chiếc đèn đổi màu liên tục nhấp nháy, và những con số tiền thưởng $800, $100, $20 liên tục xoay quanh những ô hình miếng bánh trên chiếc nón.

Hắn ghét Las Vegas, sự lộn xộn xô bồ hỗn loạn ở đây làm hắn nhớ đến cái trại tị nạn mà hắn đã lớn lên. Cái tầng trệt là khốn nạn kinh khủng nhất. Như thể Fellini đã thiết kế khu này vậy. Nó không khác một bệnh viện tâm thần với nhạc rock, trẻ con chạy đuổi nhau, máy chơi bạc kêu lanh lảnh, rồi những kẻ say cười ngả nghiêng. Không có cửa sổ ra thế giới bên ngoài. Không có gì khác để nhìn ngoài những khu đánh bạc làm điên rồ đầu óc, được trải ra như một mê cung với dòng người chật cứng vào ra không bao giờ dứt. Từ những cầu thang máy, dân tình đổ ra tầng trệt này như nước lũ, tràn ra ngoài rồi lại đâm đầu vào những nơi đánh bạc giải trí khác; nào là Riviera, Paris, Monte Carlo, rồi Gold Coast, chẳng có cái khách sạn nào trong số ấy giống như cái tên lãng mạn của chúng.

Quay lại điểm chính, vậy Robert Grady ở đâu?

“Biến nó như thể một vụ cướp của giết người nếu được,” cha đỡ đầu đã nói như vậy với Lewis. “Nhưng nếu đã 12h14 mà thằng bé đó vẫn đang đứng trong sảnh khách sạn, thì hãy bước tới mà bắn giữa mặt nó. Ta có thể tin rằng anh sẽ hy sinh bản thân nếu cần chứ, người bạn lâu năm và đặc biệt của tôi?”

“Điều gì sẽ xảy ra vào 12h15 nếu nó vẫn còn sống?”

“Nếu vậy, thế giới đáng tiếc rằng có lẽ sẽ không có gì thay đổi.”

“Tại sao giết một gã sinh viên đại học lại có thể làm khác biệt như thế?”

“Ta rất muốn nói cho anh vai trò của thằng nhỏ này. Anh xứng đáng được biết điều ấy. Nhưng nếu bọn Mỹ bắt được anh, và nếu chúng phát hiện ra được anh là ai, chúng sẽ tìm mọi cách để anh phải nói.”

Còn năm giờ và mười ba phút nữa.

Lewis đến Las Vegas 2 ngày trước đó. Quá thừa thời gian để thực hiện. Nhưng hắn không tìm ra được Robert Grady. Thằng nhỏ này không về nhà, không lên lớp. Hộp tin nhắn điện thoại của nó đã đầy và không nhận tin nhắn mới. Nó có biết gì về chuyện Lewis đến đây không? Mà nó là thằng của nợ nào? Bạn gái nó, khi Lewis gọi đến giả vờ là người của trường, đã nói rằng ả cũng chưa thấy mặt Grady cả một tuần nay.

“Anh ta đam mê cờ bạc đến bệnh hoạn, và tôi chẳng còn quan hệ gì với anh ta cả,” ả ngắt lời. “Anh ta chỉ đăng ký vào học cái trường ngu xuẩn của các anh để có thể chơi craps trong các sòng bạc mà thôi. Anh ta biến mất có nghĩa là anh ta được tiền. Anh ta sẽ chơi đến khi nào tiền thắng bạc ấy đội nón ra đi.”

Cuối cùng, khoảng một tiếng trước, Lewis gọi lần thứ tư cho các khách sạn mà gã sinh viên kia thường lai vãng và được biết rằng có một Bobby Grady đã đặt phòng ở khách sạn New York-New York này đêm nay. Lewis liền đặt một phòng ở đây. Hệ thống nói rằng thằng nhỏ này luôn ở tầng 11 của tòa tháp Century, bởi nó cho rằng tòa tháp này đem đến “may mắn.” Lewis liền nhận phòng ở tòa tháp ấy. Đó là cách duy nhất để có được thẻ ra vào thang máy để lên các tầng trên.

Lewis nhìn đồng hồ rồi nghỉ chơi và gọi tổng đài của khách sạn.

“Ông Grady vừa mới gọi. Ông ấy nói rằng ông ấy sẽ nhận phòng hơi muộn một chút,” cô trực tổng đài nói với Lewis.

“Muộn bao lâu?”

“Ông ấy không nói.”

“Có phải cô đã nói chuyện với hắn ta không?”

Cô trực tổng đài có vẻ khó chịu với câu hỏi của hắn. “Những điều tôi vừa nói là tất cả những gì đang hiện lên trên màn hình của tôi, thưa ngài.”

Lewis giấu đi sự bực bội, xụp hai vai xuống để giữ cho khỏi lộ, thong thả quay trở lại cái máy “Chiếc nón kỳ diệu” kia.

Một bà già tóc trắng trong xe lăn đã đến ngồi trước một cái máy khác cạnh hắn. Bà ta đặt lên cái đùi gầy gò của mình 1 cái cốc nhựa đầy đồng 25 xu.

Bà già mỉm cười với hắn. “Chỗ này thật là tuyệt!”

Hắn không trả lời. Như thế, bà ta sẽ nhớ về hắn ít hơn. Hắn đang nhớ tới chuyến đi thăm cha đỡ đầu lần gần đây nhất, vào tháng 8, nơi tâm hồn hắn được yên tĩnh thoải mái hơn. Hắn đã cùng cha đỡ đầu uống nước cam trong một khu vườn xanh mượt. Những cây sồi mù sương chạy vòng bao quanh thảm cỏ rộng lớn. Tiếng va đập của đại dương gần đó hòa trộn với tiếng kêu của những chú nhạn biển chao lượn trong lúc hắn và cha đỡ đầu ngồi trên chiếc ghế băng bằng đá hơn chín trăm năm tuổi. Lúc đó, mọi thứ quanh hắn, khu rừng tư và những ngọn núi xanh, rồi căn nhà trải dài phía trên khu vườn đầy tượng điêu khắc, đều thật đẹp, xa xưa, thuần nhất.

“Thực ra, Robert Grady là một trong số vài người ta hy vọng anh sẽ gặp bên Mỹ,” cha đỡ đầu nói với Lewis như vậy, lần nào cũng thế, trao nhiệm vụ như thể một lời yêu cầu, nhờ vả.

Lewis nhớ lại vụ giết người gần đây nhất của hắn, ba tuần sau đấy, khi hắn bay tới Washington D.C., mua một chiếc xe và lái lên I-95 đến đại lộ Taconic, rồi khu đồi Berkshire và làng Becket, bang Massachusetts. Nơi đó hắn theo con đường đất đến ngôi nhà cô lập của một người làm xuồng kayak năm mươi chín tuổi. Hắn đột nhập qua chiếc cửa không khóa. Người dân ở đấy không sợ trộm. Hắn đã mổ bụng người đàn ông khi ông ta quay trở về một đêm thứ Sáu sau bài nhảy Savion Glover ở Jacob’s Pillow Dance Festival. Lewis đã đeo găng tay latex cho việc đó. Hắn cũng dùng tay trái khi tấn công để gạt các chuyên viên pháp y, thẩm định những góc độ của vụ tấn công.

Lewis là kẻ thuận tay phải, trừ lúc hắn giết người.

Sau đó, hắn vơ vét ngăn tủ đựng thuốc, lấy tiền trong ví của người đàn ông cùng vài món đồ ăn cổ bằng bạc. Hắn vứt hết những thứ đó vào hồ nước của bãi khai thác đá gần đó.

“CƯỚP CỦA LÀ ĐỘNG CƠ VỤ GIẾT NGƯỜI,” tờ báo địa phương Berkshire Eagle nhận định.

Giống như cha đỡ đầu của hắn đã nói: “Khả năng lừa gạt cũng đồng nghĩa với thành công. Tạo thông tin cũng chính là một trò lừa gạt. Hãy luôn làm cho người Mỹ đổ trách nhiệm lên những người khác cho những việc mà anh làm.”

“Trước 12h14 Robert Grady sẽ chu du sang thế giới bên kia,” Lewis đã hứa như vậy, nhẩm lại những lời mà ông cụ năm đời của hắn đã viết sau Thế chiến thứ nhất. Những từ hắn mà đi đâu hắn cũng mang theo, trong một cuốn sách quăn hết góc xuất bản năm 1927. “Bàn tay chúng ta vấy máu, nhưng chúng ta được cấp phép làm điều đó.”

Và bây giờ, cuối cùng hắn đã nhận mặt được Robert Grady.

Thằng nhỏ đi ngang qua cách hắn chỉ độ nửa mét, để đến khu tiếp tân. Nhìn lướt qua, Robert Grady chẳng khác những sinh viên đại học vô tư thoải mái khác. Áo sơ mi trắng cổ mở, hơi nhàu. Quần bò Levi’s màu phai. Mặc đồ Avias và một cái cặp đeo lưng hiệu Eastern Mountain quàng quanh vai phải. Khuôn mặt tàn nhang trẻ trung với một bộ râu màu nâu. Nó có đôi mắt màu xanh biếc của trẻ con.

Nhưng Lewis cũng thoáng thấy cái gì đó thô ráp đằng sau vẻ mềm mại. Đôi mắt không thực sự trong sáng mà gắn chặt bởi một cái gì đó vô hình. Lewis đã lớn lên quanh sự tuyệt vọng. Hắn hiểu thế nào là thiếu thốn, sợ hãi, ám ảnh, hay thèm muốn. Thằng nhỏ này bị ám ảnh bởi những linh cảm trong đầu. Bị lôi cuốn thành nô lệ cho những điều may rủi.

Lewis nhìn Bobby Grady quay lưng rời khỏi khu tiếp tân. Nhưng thay vì lên tầng, Grady lại đưa ba lô cho một tên trực cửa, chỉ về phía cầu thang máy và nhét cho nó một tờ tiền típ.

Có vẻ là Robert Grady muốn chơi bạc ngay bây giờ.

Lewis thở dài, nhét đồng đôla cuối cùng vào máy và để thằng nhỏ kia lướt qua, đi vào phía trong sòng bạc. Hắn ấn nút cái máy “Chiếc nón kỳ diệu” lần cuối cùng và đứng dậy lặng lẽ đi theo.

Nhưng cái máy lại giật lên đùng đùng. Chuông kêu ầm ĩ, những cái vòng xe quay tít. Tất cả mọi người trong vài ba chục mét đổ lại cùng há hốc miệng nhìn Lewis. Bọn trực cửa. Du khách. Trẻ con. Một con điếm. Những máy quay an ninh trên trần nhà cũng sẽ ghi lại quang cảnh này. Khách trọ, rồi dân tình đang làm thủ tục nhận phòng đứng xếp hàng với đống hành lý của họ, đều vươn cổ lên nhìn. Cái máy “Chiếc nón kỳ diệu” này được lập trình sẵn, trong những trường hợp cực kỳ hiếm hoi mà nó ra tiền thưởng lớn, sẽ kêu ầm ĩ như tiếng loa báo động máy bay địch ở một căn cứ quân sự. Tiếng ồn của nó gần như nuốt chửng tiếng nhạc rock & roll chát chúa khắp tầng sảnh.

Bling bling bling bling!!!

Bà già ngồi trên xe lăn há hốc ra vì kinh ngạc. “Lạy Chúa lòng lành! Nó vẫn chưa ngừng! Năm ngàn đô, và vẫn ….nữa…oa!

Robert Grady, không hề ngoái lại xem, đang rời đi ngày một xa hơn, về phía khu vực cá cược thể thao.

Một tiếng bụp và ánh đèn flash lóe lên. Một ai đó đã chụp ảnh người thắng bạc.

“Tôi làm cho Bản tin Khách sạn,” một cô gái cầm máy ảnh kêu lên, cười toe toét với Lewis trong lúc một người phục vụ khách sạn khác, một tay gốc Mễ mặc áo khoác đỏ gạch, tiến đến với một nụ cười rạng rỡ, trong tay cầm một cái bảng viết có lẽ chứa mấy cái mẫu đơn để điền cho IRS . Bạn không thể trừ tiền thua bạc khi điền mẫu trả thuế thu nhập ở Mỹ, nhưng bạn phải trả thuế nếu thắng. Đời có công bằng ư?

Chỉ trong nháy mắt, Lewis đã phản xạ như là theo bản năng. Nếu quay chậm lại, suy nghĩ trong đầu hắn lúc đấy là:

Không cần phải lo về bọn người đứng đây. Những bức ảnh cũng không nói lên được mình trông thực sự như thế nào. Không ai sẽ kết nối chuyện bây giờ với chuyện xảy ra với Robert Grady tối nay.
Chương I (phần II)
Ngày 27 tháng Mười, 6 giờ trước khi bệnh dịch bùng nổ

Dịch: lostintranslation
Biên tập: chưa có
Nguồn: www.tangthuvien.com
Hắn quay về phía bà già ngồi xe lăn lúc chiếc máy vẫn đang kêu réo, những con số và những số không tiếp tục nhảy, mười chín, rồi hai mươi…

“Tôi trễ chuyến bay mất!” Hắn nói gấp gáp với giọng miền nam của Lewis Stokes. Hắn đã được huấn luyện ở Áo, Bahrain, Tunisia.

Bà già há hốc miệng nhìn hắn. Hắn đang nói điều bà không hề nghĩ tới.

“Con vợ tôi không biết tôi đang ở Vegas,” hắn nói. “Tôi đến đây với cô bạn thân nhất của cô ta. Nếu tôi trễ chuyến bay này, tôi sẽ toi mất!”

Bà già mắt mở to vì kinh ngạc. Ra vậy, hiểu rồi. Có lẽ mười năm bà cũng không bị sốc và buồn cười với vụ xảy ra trong vòng một phút này, sẽ có chuyện để kể cho hội mấy bà già đan len ở Houston đây.

“Thật không thể tin được,” hắn nói tiếp. “Tôi đã mất gần hết tiền ở Circus Circus còn bây giờ thì…Bà lấy số tiền này đi nhé.”

“Cái gì hả?”

Bà già ngồi xe lăn ấy há miệng to đến mức bạn có thể nhét vào đấy cả cái máy đánh bạc nhét xu kia. Lewis đẩy đám đông đi ra, lờ đi những tiếng chụp ảnh của khách du lịch. Cô gái phụ trách bản tin đã lại gần cố chụp lấy một bức chân dung. Những chiếc máy quay theo dõi tất nhiên đang theo sát sao nhất cử nhất động của hắn. Hắn lướt mắt nhìn khu trò chơi và đi khập khiễng về phía lối đi rải sỏi khu nhà hàng, về phía khu cá độ thể thao, vội vàng bởi Bobby đã biến mất!

Hắn nghe những tiếng kêu sửng sốt phía sau, “Ông ấy bỏ đi mà không lấy tiền!”

“Ông ấy nói bà già kia có thể lấy số tiền đó!”

“Tại sao là bà ta? Tại sao không cho tôi?”

Nhưng không ai đi theo hắn. Tất cả như bị gắn chặt vào cái máy “Chiếc nón kỳ diệu” kia, chăm chú xem ai sẽ là người nhận tiền thắng bạc. Hắn đi nhanh hơn, đẩy một người đàn ông to béo sang một bên và nhìn thấy thằng bé của mình đang đứng ở khu cá độ, dán mắt vào màn hình đang hiện kết quả những cuộc đua ngựa ngày hôm nay ở Aqueduct.

Robert Grady rời mắt khỏi màn hình và đi ra ngoài. Rõ ràng nó định kiếm một sòng bạc khác.

Stokes đút tay vào túi và đi theo, dọc theo đại lộ Las Vegas, nơi xếp hàng các khách sạn sòng bạc nổi tiếng cùng với dòng người không bao giờ dứt. Sau lưng hai người là khung cảnh khu Man-hattan giả tạo của New York-New York với tượng nữ thần tự do thu nhỏ. Những tòa tháp đen với hình dáng nhà chọc trời nhấp nhô một cách kệch cỡm vào bầu trời sa mạc màu lam. Những toa xe roller coaster màu vàng của khách sạn không ngừng gầm gào xoắn lượn, chở những hành khách đang kêu thét bởi sợ hãi và kích thích.

Ta cần phải thay đổi diện mạo nhưng không được để mất bóng thằng nhỏ.

Trời chạng vạng tối và những bóng đèn neon từ từ được bật sáng. Xa xa, phía sau I-15 lúc nào cũng tắc nghẽn là những ngọn núi mờ ảo màu tím. Ánh sáng của thành phố át đi những ngôi sao mới mọc. Không khí quá khô đến mức ở 37-38 độ C, Lewis không hề toát mồ hôi. Cũng có thể là mồ hôi của hắn đã khô trước khi hắn có thể nhận thấy. Hắn thích thú với cái nóng. Cách xa khỏi những khách sạn sặc sỡ chòi lòa, những công trình xây dựng, là sa mạc vô tận. Hắn đã từng sống mấy năm liền trong các sa mạc, nhưng sa mạc ở đây có vẻ khác biệt, đất bề mặt cứng hơn, cát không trắng xóa, và chen vào đó là những cây xương rồng đại thụ và những tảng đá rắn chắc. Nhưng nó sạch sẽ như bất cứ sa mạc nào, bởi sự nhào nặn tinh chế từ cái nắng nóng ban ngày và cái lạnh giá ban đêm của tự nhiên. Sa mạc này là nơi thử thách khả năng của con người, của sự may mắn, một nơi mà những kẻ thiếu kỹ năng sinh tồn sẽ biến đi như thể chúng chưa từng tồn tại.

Lewis gắng quên đi mùi hôi thối từ những người đi bộ và đường nhựa, mùi hot dog, nước hoa, khói từ ống xả xe buýt. Hắn hoàn toàn hòa trộn vào trong dòng người tấp nập.

Bởi vì, như ông cụ năm đời của hắn đã từng viết một cách khoa trương từ hồi Thế chiến thứ nhất, “Với những người lạ mặt, nếu ta không xử sự giống như họ, thì ít nhất ta cũng có thể che dấu bản thân mình, để đi cùng họ mà không tạo chuyện xích mích gì.”

Cuốn sách ấy, món quà từ người cha đỡ đầu, đã đem lại cho hắn mục đích sống. Cuốn sách an ủi hắn mỗi khi hắn cô đơn.

“Chúng ta sống cho ngày hôm nay và chết cũng vì nó,” ông cụ năm đời của hắn, hiểu rõ cái bí mật của cuộc sống, đã viết như vậy.

*
* *

Bobby Grady đi thong thả vào cái sòng bạc đầu tiên mang tên Monte Carlo. Nó đổi tiền lấy chíp đánh bạc ở bàn chơi bài blackjack. Nó chơi được blackjack ở ngay bài đầu tiên.

Lewis nhân cơ hội này lẩn vào phòng vệ sinh nam. Hắn đã định thay đổi diện mạo sau đấy nhưng vụ thắng to trò “Chiếc nón kỳ diệu” làm hắn phải cảnh giác. Chuyện người thắng 20 ngàn đô bỏ đi không lĩnh thưởng có khi lên báo lên TV chứ chẳng chơi! Hắn tưởng tượng cảnh du khách đang cung cấp cho đài truyền hình những bức ảnh về hắn, để chuẩn bị cho buổi phát sóng tối nay.

“Các bạn có từng nhìn thấy người đàn ông này chứ?”

Hắn tìm một cái vách ngăn trống, tim đập mạnh. Hắn đang đánh cuộc với bản thân rằng Robert Grady sẽ còn ngồi ở cái bàn blackjack đó thêm vài phút nữa. Lewis tự buộc phải làm chậm lại để tránh lộ ra điều gì sai sót. Miếng tóc trên đầu được tháo ra, nháy mắt hóa hắn từ đầu hói tóc nâu sang một tên tóc vàng ươm.

Vãi thật, có bao nhiêu mớ tóc giả có được những điểm hói trên đầu chứ? Không nhiều đâu, hắn nghĩ.

Cái áo khoác màu xanh quê mùa đang mặc được cởi ra, rồi sơmi, cà vạt cũng ra đi, hiện ra một cái áo đan màu trắng. Cái ruột bong bóng để làm to bụng, rồi rất nhanh, cái kính gọng đen cũng được tháo ra. Mắt của hắn thực chất là 20/20. Hắn thẳng người, cao lên hơn trước đến 5cm. Không còn dáng đi khập khiễng. Cái má giả bằng cao su, rồi ria mép cũng không còn nữa.

Từ trong túi bên hông hắn lấy ra một cái túi ba lô mỏng manh nhưng cực kỳ bền chắc. Những đồ không dùng nữa được cho vào đây. Cái quần, rồi giày cao su tiếc là vẫn như cũ. Thay đổi nhanh cũng có những giới hạn của nó.

Khẩu súng lục 9mm Glock giờ đây nằm ở dưới áo sơmi, kẹp ở sau lưng.

Chưa đầy 3 phút sau khi vị khách du lịch hói đầu chừng 40 tuổi chui vào vòng vệ sinh, một trung niên đẹp trai khỏe khắn, da ngăm mắt xanh như đại dương – con người thật của Lewis- xuất hiện và đi vào sòng bạc. Lúc này Robert Grady đã đứng dậy khỏi bàn blackjack, nhặt mấy đồng chip chơi bạc rồi bỏ đi.

Hắn lại đi theo Bobby ra ngoài lần nữa, chậm lại bằng với tốc độ thằng bé và quẳng túi ba lô vào một thùng rác. Hắn đã thấy một tên móc rác-loại vô gia cư của Vegas—chạy ngay sang để lấy cái túi ấy, và có lẽ sẽ bán mấy thứ đồ trong đấy đi.

Ta vẫn chưa hiểu chuyện gì sẽ xảy ra sau 12h14.

Đã Mười giờ năm mươi chín rồi.

Bobby Grady vẫn đang dạo bước.

Thật không thể tin được. Thằng nhỏ này không biết mệt hay sao? Nó đã đi ra đi vào các sòng bạc hàng tiếng đồng hồ, mất hàng nghìn đô chơi bài blackjack, xúc sắc, rồi baccarat, cá độ. Nó vừa chui vào sòng bạc “Palace Station” và khách sạn New Frontier.

Làm thế nào mà một thằng sinh viên có nhiều tiền như vậy?

Thằng bé như đang hành động một cách vô thức. Hết đánh bạc là đi. Rồi lại đánh, lại đi. Giữa những lần thua bạc ấy, nó thậm chí còn dừng lại xem mấy vụ biểu diễn ngoài trời ở các khách sạn. Ở Venetian, thằng bé ngồi một lúc lâu xem “gondolier” khăn quàng đỏ đẩy thuyền và hát cho khách du lịch quanh cái hệ thống kênh nước lố bịch bắt chước theo Venice nước Ý.

Lại nước, Lewis nghĩ, khi theo Grady đi qua những vòi phun nước đang múa theo nhạc vào sòng bạc Bellagio. Những vòi phun nước ấy đang uốn éo múa theo điệu nhạc “The Star Spangled Banner.” Thật là buồn cười. Ở cái thành phố sa mạc được dựng lên để dân tình đến tiêu hoang này, cái thu hút người ta nhất, cái tuyệt nhất trong các show diễn đơn giản lại là nước.

Mười một giờ mười.

Còn một tiếng và bốn phút nữa.

Robert Grady dạo quanh cái vườn hoa nhiệt đới đẫm sương của khách sạn. Nó dừng lại nhìn một cách ngu ngốc vào con đại bàng máy to tướng ở trong vườn – biểu tượng của yêu nước của người Mỹ, đang gật gật cái đầu khiến Lewis liên tưởng đến những con khủng long rôbốt trong những bộ phim thời những năm 1950. Những phim Mỹ xưa cũ ấy, hắn đã xem hồi còn ở trại tị nạn, lúc hắn chỉ là một đứa trẻ.

Hượm nào. Grady đang đi về phía WC nam.

Lewis đi theo.

Tay hắn với về phía sau, cảm thấy con dao sau lưng.

Nhưng hắn nghe thấy có tiếng cười lớn trong đó, và khi đẩy cửa vào, hắn thấy sáu bảy đứa to con lực lưỡng- trông kiểu tóc và hình dạng thì giống cảnh sát – đang ở bồn rửa tay. Bọn này đeo thẻ tên trên áo.
Chắc đang ở đây dự hội nghị nào đấy.

“Anh gia nhập FBI lúc nào vậy?” một người trong nhóm hỏi bạn.

Không thể tin được!

Mười một giờ hai tư, Bobby mới ra khỏi toilet, tay xoa quanh rốn như thể đang bị đau bụng.

Mười một giờ ba mươi.

Nếu có phải khử nó giữa nơi công cộng, ta cũng làm.

Robert Grady rẽ rồi lại đẩy cửa ra khỏi sòng bạc, đi về phía nam – hướng về khách sạn New York-New York, vượt qua mấy hàng pizza và bánh kẹp phục phụ loại du khách nghèo, và dẫm lên hàng trăm tờ giấy mời chào dịch vụ gái gọi, do đám dân lao động bất hợp pháp người Mễ phân phát – rơi vãi khắp nơi trên vỉa hè.

Tới lại New York-New York rồi.

Lewis đi theo thằng bé vào khách sạn. Đại sảnh vọng lại tiếng nhạc rock, nhạc Ailen. Robert lục ví tìm thẻ phòng. Thẻ phòng này cũng dùng để cấp phép vào thang máy.

Hắn đi vào thang máy theo thằng bé. Chỉ có hai người. Hắn có thể nghe thấy thằng bé đang xoa bụng.

Bobby nhún vai về phía hắn hỏi, “Đêm nay, vận may của anh thế nào?”

“Khá lắm,” Lewis đáp với giọng miền nam. “Còn anh?”

“Ừm, vận may rồi cũng có lúc thay đổi chứ, phải không?”

Lewis thoát ra khỏi thang máy trước nửa bước ở tầng thứ 11 để khỏi làm thằng bé nghi ngờ. Cả hai rẽ vào hành lang bên trái. Không có ai khác ở ngoài này. Một vài phòng có khay đĩa bẩn ngoài cửa. Điều hòa ở đây được để ở mức lạnh tối đa, có lẽ để khách không ngủ được, Lewis nghĩ.

“Chúc anh may mắn ngày mai,” thằng bé nói phía sau lưng hắn, tay nhét thẻ vào khe đọc ở cửa phòng.

Tất cả những gì sau đấy đều đơn giản, như một việc làm thường ngày.

Tay của Lewis vung lên nhanh gọn. Hắn tấn công thằng bé từ phía sau, tay phải bịt miệng Grady, đẩy nó vào trong phòng. Tay trái đâm dao khoét vào giữa xương lồng ngực thứ ba và thứ tư. Cái hành động ấy, hắn đã làm đến cả nghìn lần trong suốt mấy năm qua, với túi cát, với hình nộm, với tù nhân, với những người mà cha đỡ đầu nhắm tới.

Chỉ vài giây trôi qua. Hắn đóng cửa. Robert Grady nằm úp mặt xuống thảm về phía phòng tắm, trong lúc máu loang ra áo sơ mi. Giờ nó chỉ là một cái xác không hồn. Nó thậm chí chẳng hề chống cự. Hệ thống điều hòa sẽ cản cái mùi chết chóc tỏa ngay ra hành lang để gây chú ý cho đứa hầu phòng nào đó, dù cái biển “ĐỀ NGHỊ KHÔNG LÀM PHIỀN” đã được treo trước cửa. TV vẫn đang bật, cánh cửa sổ được mở tối đa - khoảng một phân. Các cửa sổ khách sạn ở Vegas chỉ mở được có vậy, có lẽ để mấy đứa thua bạc không vì chán đời mà tự tử, Lewis nghĩ.

Đến lúc đeo găng tay làm chứng cứ giả rồi!

Lewis lấy ví và tập tiền 100 đô bên trong. Hắn lấy trong túi quần một túi Ziploc nhỏ. Bên trong là một cái khuyên tai bằng vàng, một món quà hắn tìm được cạnh một cái máy đánh bạc. Một ít máu khô của phụ nữ đã làm đổi màu cái khuyên tai. Hắn để cái khuyên tai rơi xuống thảm.

Hắn mở tiếp một bình nước hoa rẻ tiền và cố ý làm đổ nó ra sàn. Như thế cái mùi nước hoa sẽ bị giữ lại trong thảm, kể cả sau khi hắn cho bình hoa lại vào túi.

Rồi hắn tạo tiếp hai dấu hằn của mông ở trên giường, như thế trước đó đã có hai người ngồi cạnh nhau trên đó. Bọn điều tra sẽ cho rằng Robert đứng lên rời khỏi giường, và bị tấn công từ phía sau khi đang đi ra phòng tắm.

Cuối cùng, Lewis cầm dao đâm loạn xạ, tất nhiên với cái tay trái, vào lưng, cổ, đầu cái xác. Như thế, cái đâm giết người ban đầu sẽ được cho là một trong vài cú đâm mà thôi.

Lewis Stokes- kẻ sáng hôm sau đã trở thành Clayton Cox – nhất định rằng một ngày nào đó, hắn cũng sẽ viết hồi ký như ông cụ năm đời của hắn. Có lẽ hắn sẽ nghĩ về chuyện này trong vài tuần tới, khi hắn được lệnh tới Washinton, giám sát một vài người trong Lầu Năm Góc và chờ chỉ đạo từ con người đã thay đổi đời hắn.

Dối trá là chìa khóa của thành công.

Trên bàn con cạnh giường, đồng hồ điện tử vừa hiện 12:14 AM.

Không hiểu, chuyện gì sẽ xảy ra 1 phút sau đấy nhỉ?

Đã đến lúc ra khỏi đây, rời Vegas. Cha đỡ đầu đã vạch sẵn một đường rút lui êm thấm.

Cũng như ông cụ năm đời của Lewis đã viết về những bí mật của mình, cho lịch sử, các chính phủ, cho học giả, “Cái giá treo trên đầu chúng tôi nói lên rằng kẻ thù đã chuẩn bị sẵn những tra tấn khủng khiếp cho ngày chúng tôi sa lưới.”


 
Ngày thứ Hai đen tối

Tác giả: Scott Reiss



Chương II
Dịch: lostintranslation
Biên tập: lostintranslation
Nguồn: www.tangthuvien.com
HAI

Ngày 28 tháng Mười – Đại dịch bùng nổ

Nếu Las Vegas mới nửa đêm thì ở Quatar, đất nước dầu mỏ nhỏ bé nhưng giàu có ở tây nam vịnh Persia đã là 10 giờ sáng. Trụ sở chính của Al Jazeera, kênh truyền hình phổ biến nhất trong thế giới Arab, vừa mới được chuyển đến đây, chiếm ba tầng trên cùng của tòa tháp kính 17 tầng mới xây bóng loáng nhìn ra phía vịnh đầy cá mập. Phía dưới, những chiếc du thuyền của dân nhà giàu gầm rú vượt qua những chiếc tàu chở dầu hướng ra cửa vịnh và những chiếc tàu hàng container ì ạch chở các loại máy tính, TV màn hình lớn, chiếc xe SUV uống xăng như nước lã và đồ nội thất Italy cho khu nhà của những triệu phú mới nổi xếp hàng dọc theo bờ biển nhân tạo.(1)

Ở tầng thứ 16 đầy những tiếng ồn ào, Hassan el Kader đang ngồi trong phòng điều khiển của Studio C, có điều hòa bật nhưng sống lưng hắn đẫm mồ hôi khi nghĩ đến khả năng bị giết từ chương trình sắp tới.

Mình có đi quá xa lần này hay không?
Hắn tự nhủ.

Hassan là giám đốc sản xuất của chương trình tin tức hàng tuần nổi tiếng “Địa danh và gương mặt.” Hắn cũng là một điệp viên của CIA, truyền cho phía Mỹ những thông tin mà phóng viên dưới quyền thu thập được. Và những người Mỹ đã rất quan tâm đến một đoạn phỏng vấn dài 2 phút được thu từ trước để phát sóng cho buổi chương trình hôm nay, sẽ được chuyển tới hàng trăm triệu người của thế giới Arab chỉ trong vài phút nữa.

Trên sàn quay, phía ngoài phòng điều khiển, cô gái phụ trách hóa trang đang quét nốt phấn mặt lên người dẫn chương trình, Leila Shaalan.

Vụ này bắt đầu ba tuần trước đó, với kịch bản giống hệt như những bản tin nóng mà hắn đã làm suốt mấy năm qua, khi di động của Hassan đánh thức hắn dậy lúc 2 giờ sáng, và một giọng nói quen thuộc thì thầm giữa màn đêm. “Tôi có một câu chuyện rất hay cho anh,” một giọng đàn ông, người hắn chưa bao giờ gặp nhưng là một trong những nguồn cung cấp tin tốt nhất, đã nói. “Liên quan đến một ông già sống trên núi ở Pakistan.”

Một ông già có lẽ sẽ bị người Mỹ hay Anh truy lùng đêm nay, Hassan tự nói với chính mình. Đèn “Yên lặng trên sàn quay” sáng lên và những người dẫn chương trình đã sẵn sàng, quay mặt về phía ống kính máy quay. Hassan nghĩ lại về cuộc gọi đêm đó.

“Một vị thánh nhân với những lời tiên tri,” cái giọng nói kia nói tiếp.

“Ai mà chẳng dự báo chuyện này chuyện nọ,” hắn đã đáp lại.

“Nhưng những lời dự báo của ông ta đều trở thành hiện thực. Ông ấy biết những điều sẽ xảy ra ở rất xa làng của mình, thậm chí ở Washington. Ông ấy sẽ tuyên bố một dự báo vô cùng quan trọng. Hay là tôi cần phải gọi cho BBC để mời họ ghi lại lời nói đó thay cho anh, anh bạn béo của tôi?”

Với 30 giây còn lại trước khi buổi chiếu bắt đầu, tiến độ trong phòng thu làm tim Hassan đập mạnh. Hắn, dân Kuwait 36 tuổi, cựu sinh viên Đại học Kuwait và trường báo chí đại học Columbia, từng là phóng viên đoạt giải tác nghiệp – ngồi trước hàng chục màn hình được treo trên tường đang chiếu những chương trình khác nhau từ khắp nơi trên thế giới: một cuộc tuần hành phản đối giá xăng cao ở Chicago; một cảnh công nhân ngành đường sắt nổi loạn ở Paris; cảnh diễu binh như với những bước đi như ngỗng ở Bắc Triều Tiên; những mảnh vỡ trôi nổi của một máy bay Airbus hãng Alitalia sau khi đâm xuống Địa Trung Hải đêm hôm qua trên đường bay tới Rome.

Hệ thống các giác quan của loài người không được tạo ra để giúp họ có những cuộc sống bí mật, Hassan thỉnh thoảng nghĩ, nhớ lại cách người Mỹ đã tuyển mộ hắn hồi còn là sinh viên ở ĐH Kuwait. Họ đã cứu nước hắn khỏi tay bọn Iraq. Cha hắn - một phi công - đã bị giết trong cuộc chiến đó. Những sinh viên theo chủ nghĩa lý tưởng như hắn cho rằng người Arab cần phải tham gia vào cuộc chiến chống khủng bố.

Chúng tôi cần một người tại Al Jazeera, vị “giáo sư” khoa báo chí người Mỹ đã nói như vậy lúc tuyển mộ hắn. Chúng tôi cần một đường nối đến thế giới của bọn khủng bố. Chúng tôi có thể cứu mạng nhiều người Arab nếu anh cung cấp tên, địa chỉ, và nguồn tin. Chỉ thinh thoảng với những tin thật quan trọng thôi. Anh sẽ tham gia chứ?

Từ đó tới nay, hắn đã giúp ngăn chặn những vụ nổ bom ở Madrid và Baltimore. Và cũng bởi lời cảnh báo của hắn hôm nay, mức độ báo động khủng bố đã được nâng lên ở khắp châu Âu và nước Mỹ. Thêm cảnh sát túc trực ngoài đường, thêm máy bay trực thăng phụ trách an ninh. Việc kiểm tra kiếm soát ở sân bay, bên cảng cũng được tăng cường.

“Và bây giờ,” vang lên tiếng của một phát thanh viên với hình trái đất đang quay tròn trên nửa số màn hình trên tường, “xin chào mừng các bạn tới chương trình Địa danh và gương mặt.”

Hassan nghĩ: “nếu kẻ cung cấp tin biết được điều ta đã làm, ta sẽ chết mất.”

Phân đoạn đầu tiên, một buổi phỏng vấn với vua Jordan đã bắt đầu. Khuôn mặt nhà vua giờ chiếm mười cái màn hình trong phòng điều khiển. Đoạn này được ghi hình ở cung điện của vua ở Amman.

Hassan thò tay lên túi áo và lấy ra một gói Tums(2) nhỏ bọc giấy bạc…

“Hãy nói thêm về ông già thánh nhân cho tôi,” hai tuần trước, Hassan đã hỏi người gọi điện cho anh như thế sau khi đã nhổm dậy khỏi giường.

“Ông ta đang có ngày một nhiều tín đồ. Những người dân bộ lạc. Một vài người trong giới quân sự. Sinh viên. Danh tiếng của ông ta đang ngày một vang xa.”

“Ông ta đã có những lời dự báo tiên tri nào thành sự thực?” Hassan gặng hỏi như bất cứ một phóng viên kỳ cựu nào. Hắn đã giúp CIA thoát khỏi chủ nghĩa hoang tưởng. Hắn đã từ chối tiền công suốt mấy năm qua và giấu những hoạt động bí mật của mình với vợ con.

Và trong cái đêm có cuộc gọi đó, Hassan đã cho rằng một trong những tổ chức có tên tuổi – Red Brotherhood, Al Qaida, hoặc Black Baghdad – muốn vị Imam(3) kia được lên TV, có lẽ đã chuẩn bị sự kiện gì đó quanh buổi phát sóng. Hoặc mấy nhóm đó muốn đánh bóng tên tuổi của vị Imam này. Những nhóm cực đoan thường sử dụng Al Jazeera để phát đi những thông điệp của chúng.

Mẹ nó, nếu nó là tin tức, chúng ta sẽ phát nó, chẳng phải vì chúng ta thể hiện thiện cảm gì, Hassan nghĩ, hồi tưởng trở lại cuộc gọi đêm đó, và đầu dây bên kia đã trả lời thế này:

“Mới tháng trước, vị Imam thần thánh này nói với chúng tôi rằng trong vòng 24 tiếng cái chết sẽ từ trên trời rơi xuống ở thung lũng Bar El Kab ở Algeria. Và điều đó đã xảy đến. Máy bay chiến đấu của Mỹ đã phá hủy một trại huấn luyện du kích Hồi giáo (mujahideen) ở đó. Vị Imam này có thể nhìn thấy tương lai, nghe được ý đức Chúa Trời.

“Làm thế nào mà vị Imam này biết những người Mỹ định làm gì?”

“Anh cứ gửi phóng viên đến mà hỏi. Kiểm tra lại những dự đoán trước đấy của ông ta. Chúng đều thành hiện thực cả. Chuyện biết được tương lai, cái này có phải là tin tức không?”

“Ông ấy còn từng dự báo gì nữa?”

“Hai tháng trước ông ấy cảnh báo tất cả những tín đồ trung thành ở thành phố Tulsa hãy rời nước Mỹ và trở về nhà. Ông ấy nói cảnh sát Mỹ sẽ bắt người, làm họ khốn khổ nội trong vòng một tuần.”

“Hai tháng trước,” Hassan nói, nhẩm lại những sự kiện đã qua, “là lúc FBI bắt gom những người nhập cư người Tunisia ở Tulsa.”

“Và chuyện đó xảy ra ngay ngày hôm sau lời cảnh báo ấy. Gửi một phóng viên đi. Hãy cho thế giới biết điều mà vị thánh nhân này sẽ nói. Và hãy làm điều đó trước ngày mùng một tháng Mười Một.

“Tại sao lại là ngày đó?”

“Bởi trước ngày đó, ông ấy nói rằng lời tiên tri sẽ thành sự thật.”

“Làm thế nào một vị Imam nghèo khổ ở Pakistan biết được chuyện xảy ra ở Washington?”

“Để phóng viên của anh hỏi đi.”

“vị Imam này có liên hệ với tổ chức chính trị nào không?”

“Ông ấy sẽ trả lời tất cả các câu hỏi như vậy.”

“Ông ấy tiên tri cái gì mới lần này?”

“Tôi cũng như anh, phải đợi. Anh có muốn chạy câu chuyện này hay không?”

“Anh là ai?” Hassan hỏi, câu hỏi mà hắn phải nhắc lại đến hơn một trăm lần sau mấy năm qua.

“Một người bạn mà lời khuyên chưa bao giờ sai cả.”

Lúc này Hassan mở một túi kẹo Tums nữa còn trên trường quay, cô gái Leila Shaalan đáng yêu đang nói với khán giả, “Đoạn chương trình tiếp theo của chúng ta hôm nay thực sự vô cùng đặc biệt. Phóng viên Fauzen el Harith của “Địa danh và gương mặt” đã làm một cuộc hành trình dài tới Pakistan, vùng núi tây bắc cheo leo và nguy hiểm để tìm gặp một vị thánh nhân.

Tấm bản đồ địa hình khu vực trên màn hình TV hiện lên những vạch nhỏ màu đỏ, chỉ hành trình chuyến đi của Fauzan. Chà, Pakistan, Hassan thầm nghĩ thích thú, cách của một nhà báo với những nơi có chuyện rắc rối. Nếu không phải là chuyện chính phủ bị lật đổ thì là chuyện đối đầu hạt nhân với Ấn độ, hoặc một cuộc truy lùng các nhóm vũ trang Hồi giáo, hay những lời buộc tội về mua bán bí mật nguyên tử.

“Để có thể đến gặp vị thánh nhân này, chúng tôi đã phải đi mất hai ngày,” tiếng của Fauzan qua điện đàm vang lên khắp nơi trên thế giới, trong các hàng cà phê ở Cairo, các đồn cảnh sát ở Damascus, các biệt thự ở Lebanon, các trại tị nạn của người Palestine. Các nhóm phân tích phương Tây ở London và McLean (4) tất nhiên là cũng đang dán mắt xem. Họ tức giận mỗi khi phóng viên của Al Jazeera phỏng vấn người mà CIA đang muốn bắt, như ông già của phần thứ hai chương trình hôm nay.

Như để kéo dài thêm sự trông đợi của người xem với câu chuyện, Fauzan xoay ra thuật một cách diễn cảm con đường leo lên dãy núi Katar, chuyện mặt trời thiêu đốt và không khí ngày một lạnh, về chuyện nằm ngủ cùng những người dẫn đường dưới trời đầy sao, và được ngắm một trận mưa sao băng bay ngang dưới ánh trăng lưỡi liềm nóng trắng.

Trên màn hình TV, người phóng viên leo lên tới vạch băng tuyết vĩnh cửu. Đoàn người vượt qua một dãy núi và bắt đầu leo xuống một thung lũng màu nâu đầy sỏi đá, khắc nghiệt.

“Đó là lúc tôi nhìn thấy các hang động,” Fauzan nói.

Chúng ta đều lợi dụng nhau cả thôi. Bọn CIA lợi dụng ta. Ta khai thác những kẻ cung cấp tin tức. Bọn khủng bố lợi dụng hệ thống truyền thông. Còn hệ thống truyền thông thì sống nhờ thông tin, Hassan nghĩ bụng trong lúc một vị Imam đi tập tễnh đến trước máy quay. Đó là một người đàn ông già, què, và lùn, đứng dựa vào đôi nạng gỗ, cái chân trái vô dụng lủng lẳng đu đưa khoảng 15 phân phía trên sàn động mỗi bước ông di chuyển.

“Imam Suleiman chưa từng bao giờ rời cái làng nơi ông được sinh ra hơn 10 cây số (5). Ông đã bị què chân từ năm sáu tuổi,” tiếng của Fauzan thuật cho khán giả của Al Jazeera.

Mười màn hình trong phòng điều khiển hiện lên cảnh một số người đàn ông đang ngồi một vòng tròn trong hang động, mặt mày ảm đạm, chân xếp chéo trên thảm, mặc bộ quần lùng thùng với áo gi lê, trong khi ánh sáng mặt trời xuyên rọi qua một lỗ hổng tự nhiên phía trên trần. Những hạt bụi múa trong cột ánh sáng ấy. Hassan, vốn từng là phóng viên phụ trách Pakistan, tưởng tượng đến mùi hôi của những con người không tắm, vị trà ngọt, món thịt cừu cà ri, than đá, rồi những thứ vũ khí óng mỡ dầu.

“Tin về khả năng tiên tri của Imam Suleiman đã vang rất xa và rất nhiều người đã tìm đường tới thung lũng này,” Fauzan nói.

Máy quay camera tập trung vào khuôn mặt tàn tạ và con mắt trái trắng đục của người đàn ông già. Tất cả nhân viên dưới quyền Hassan đã bị choáng váng khi lần đầu tiên xem cuốn băng này.

Fauzan bắt đầu cuộc phỏng vấn vị Imam với câu hỏi về thông báo tháng trước của ông cảnh báo một người tên là Abu Gabra, ở nơi phương nam xa xôi, rằng ông ta sẽ bị những kẻ gắn lông chim diều hâu tấn công. Fauzan hỏi liệu Suleiman biết được rằng “Abu Gabra” thực sự là tên của một mỏ dầu ở Sudan. Và rằng quân lính dù Pháp, khi nhảy dù xuống Abu Gabra một tuần sau lời dự báo ấy để giải cứu con tin, đều đeo miếng phù hiệu hình diều hâu trên tay áo.

“Ta chỉ nhắc lại những lời mà Chúa đã đặt vào miệng ta,” Imam Suleiman nói với thứ giọng cao kỳ lạ.

Fauzan lại hỏi phải chăng linh cảm của Imam là từ tin tức của các nhóm khủng bố cực đoan.

“Nếu điều đó là sự thật, con trai của ta, nếu họ biết cái gì đang chờ đón họ, tại sao những chiến binh của chúng ta ở Abu Gabra không sẵn sàng để chống lại lính Pháp khi chúng tới?”

Hassan cảm thấy không yên tâm, hắn lướt qua các kênh nước ngoài, kiểm tra liệu một cuộc tấn công khủng bố đã được sắp đặt cho trùng với thời điểm phát sóng của “Địa danh và gương mặt.” Mọi thứ đều có vẻ bình thường trong thế giới tin tức, dù “bình thường” mang nghĩa gì đi nữa. Truyền hình Pháp có đoạn tin về hạ thủy tàu ngầm nguyên tử. Truyền hình Đức – một đám cháy lớn ở Berlin. Hai chiếc tàu đâm vào nhau ở Tokyo. Hết thảm họa này đến tai nạn khác, như trong một bộ phim không tưởng của Hollywood.

Nhưng dù có mệt rã rời như Hassan, có một điều gì đó không thể cưỡng lại được trong cách nói của Imam Suleiman. Vốn đã biết trước điều gì sẽ diễn ra tiếp theo trong cuốn băng hình, Hassan cảm thấy một sự sợ hãi tột cùng, xuyên thủng lớp bảo vệ thường ngày của một nhà báo luôn phải hoài nghi.

Dự báo của ông ấy là không thể xảy ra được. Hassan nghĩ. Đó chỉ hoa ngôn mà thôi. Những điều ông ta nói không thể thành sự thật.

“Tôi được biết rằng ông sẽ đưa ra một lời dự báo,” phóng viên trẻ tuổi đẹp trai Fauzan hỏi vị Imam.

Camera chiếu kỹ khuôn mặt ông già một lúc lâu. Mắt trắng đục. Hai má lởm chởm. Một vết sẹo ngang trán, được cho là vết sét đánh từ hổi Imam mới sáu tuổi. Đó là dấu ấn của Chúa Trời, những người chăn gia súc địa phương đã nói vậy.

Giọng nói của Imam Suleiman trở nên khàn đục, giọng trẻ hơn. Như thể một linh hồn nào đó đã chiếm lấy cơ thể ông. Đứng thẳng lên, dáng ông bỗng lớn hẳn.

“Hãy vui mừng đi, các anh em, bởi hôm nay ta không than khóc cho những đồng đội đã ngã xuống. Lần này, ta không dự báo về cái chết cho những người bằng hữu, mà là sự hủy diệt cho kẻ thù lớn của chúng ta. Chúa đã chịu không thấu chúng - sự tàn sát ngạo mạn, sự thối nát, lòng tham vô đáy, sự ngu dốt của những kẻ theo dị giáo và sự nhạo báng những lời dạy của Người, và vì thế, lần này ta sẽ tuyên bố một fatwa (6).

Những người đàn ông trong hang đổ người về phía trước như bởi một lực kéo vô hình. Đến Fauzan cũng cảm thấy bị thu hút bởi uy lực của vị Imam này, bởi sự chắc nịch trong giọng nói của ông.

“Hãy để những tòa tháp của chúng rơi vào bóng tối ở Washington, London và Bonn. Hãy để người dân chúng vùng lên chống lại những kẻ thống trị. Hãy để những ngôi nhà của chúng bùng cháy, thức ăn biến mất, máy móc của chúng ngừng hoạt động và rơi từ trên trời xuống, bắt đầu từ cuối tháng này.

Hãy để quân lính của chúng nổi loạn, các chính phủ của chúng bị sụp đổ, những ngôi nhà dị giáo bị chính tay chúng đạp nát. Hãy để cho thiên nhiên ngừng ban ân huệ cho chúng, bắt đầu trước ngày đầu tiên của tháng 11.

Chưa có dự báo tiên tri nào lại rõ ràng và lớn như vậy, Hassan nghĩ. Không có lời đe dọa nào lại có thời gian biểu như vậy.

“Khi đối mặt, ông ấy trông thật là đáng sợ, nhưng lên TV thì lại rất tuyệt,” Fauzan đã từng nói.

Không hiểu quân Mỹ đã tấn công cái hang đấy chưa nhỉ?

Vị Imam đang nói, “Và những tài sản, của cải do chúng cướp đoạt mà có sẽ biến thành vô dụng. Lũ đồng minh thối nát của chúng trong thế giới Hồi giáo sẽ phải trả lời hàng triệu người đang bị áp bức. Đây không phải là một điều ước vẩn vơ. Sự trừng phạt của đấng Tối cao sẽ bắt đầu không phải trong tương lai xa xôi gì mà có lẽ ngay khi những lời nói của ta tan biến.”

Tháng Mười chỉ còn chưa đầy 3 ngày rưỡi nữa,
Hassan nhẩm tính. Vậy thì bất cứ ai đứng sau lời đe dọa này có 86 tiếng để tổ chức tấn công.

Imam Suleiman nói tiếp, “Và từ trong đống đổ nát, những người sống sót sẽ dựng xây lên một thế giới tươi đẹp mới.”

Rồi ông im lặng, không thêm một lời nào nữa. Ông quay trở lại hình dạng của một ông già. Ông tập tễnh bước đi dưới sự giúp đỡ của những người phụ tá.

Hassan hiểu rằng, ngay lúc này đây, hàng triệu người trên thế giới Arab, trong nhà ngoài quán, công sở hay cung điện, đều đang nhìn nhau và tự hỏi liệu thực sự một quyền lực huyền diệu nào đó đã truyền cho vị Imam già cả kia khả năng nhìn thấy một tương lai có sự trừng phạt của chúa trời.

Fauzan nhìn sâu vào ống kính máy quay. “Chúng tôi dành lại cho các bạn một câu hỏi. Thời gian đã sắp đến gần. Liệu lời dự đoán của Imam sẽ thành sự thực?”

Chương trình đến hồi kết thúc, với phần danh sách những người làm chương trình đang chạy trên màn hình.

Trên trường quay, cô gái dẫn chương trình đang tháo chiếc micro gắn trên ve áo.

Hassan cảm thấy cái lưng của hắn đã bắt đầu đỡ căng cứng, điều luôn xảy ra với những chương trình hắn thông báo cho CIA. Hắn nghĩ, có khi cũng như những lần khác, vụ này rồi sẽ lại trôi qua êm đẹp.

“Này anh, cái này không phải là vụ rơi máy bay của hãng Alitalia,” phó giám đốc sản xuất bỗng nói, chỉ về phía màn hình số 9. “Đó là một vụ tai nạn khác!”

Hassan nhìn sang phía tay phải. Hắn thấy hình ảnh cầu Cổng Vàng (Golden Gate Bridge), có vô số người đang đứng dàn hàng và chỉ trỏ. Hàng tin chạy phía dưới là “Máy bay của hãng Delta gặp tai nạn ở vịnh San Francisco.”

“Chuyện quái quỷ gì thế này…. đợi chút nào,” một kỹ thuật viên khác nói vài phút sau đó, chỉ lên màn hình số 6 – dẫn hình của kênh truyền hình BBC. “Lại có một vụ nữa ở trên eo biển nước Anh! Tính cả vụ tối qua ở Rome, đã có ba vụ máy bay rơi rồi!”

Chiếc máy bay 747 hãng British Airways có vẻ đã rơi xuống phía bắc của thành phố Le Havre, trong một chiều xanh trong không một bóng mây. Nó vỡ thành nhiều mảnh khi rơi xuống nước. Và cũng vừa mới xảy ra thôi.

Bọn chúng còn dàn dựng bao nhiêu vụ máy bay rơi nữa, Hassan nghĩ, sợ hãi, nghe rõ tiếng tim đập thình thịch vang lên trong óc.

Lũ khốn nạn. Làm thế nào chúng có thể sắp đặt những chuyện này nhanh như vậy?

“Bật tiếng vụ ở London cho tôi,” Hassan ra lệnh, và một chút sau đó là tiếng phát thanh viên của đài BBC. “Phi công máy bay thông báo cả bốn động cơ của máy bay đều ngừng hoạt động. Phi hành đoàn của Air India cũng đã thông báo chuyện tương tự cách đây 20 phút, trước khi rơi từ độ cao 10 cây số xuống Ấn độ dương vùng biển Arab. Chúng tôi nhắc lại, không có một vụ nổ nào. Các nhà chức trách thực sự bị sốc trước sự kiện bốn máy bay rơi trong vòng một ngày này. Những chiếc máy bay này được chế tạo bởi các hãng sản xuất khác nhau. Và hiện tại các vụ máy bay rơi này vẫn chưa được coi là do bàn tay của các tổ chức khủng bố. Tuy nhiên, các hãng hàng không lớn đều đã hủy bỏ các chuyến bay cho tới khi tất cả các máy bay của họ được kiểm tra không có chất nổ hay phá hoại.”

Hassan loạng choạng đứng dậy. Phòng điều khiển hiện giờ thật chật chội, không còn chút sinh khí.

“Tại sao ta lại đồng ý chạy cái chương trình vừa rồi chứ. Ta đã tiếp tay cho những kẻ thực hiện âm mưu này.”

Hắn cảm thấy trái tim đập loạn một cách dữ dội. Hắn chen qua đám người với những chiếc màn hình tivi và ra hành lang để tìm chút ánh nắng, cảnh biển, hay một cái gì đó thuộc về tự nhiên. Hắn đi về đông bắc của phòng tin tức, phía bức tường kính nhìn ra bến cảng, nhưng có vẻ như tất cả mọi người khác cũng đã tập trung về phía đó.

Bọn họ đang há miệng ra nhìn cái gì dưới kia?

Hassan thầm cầu nguyện với một nỗi sợ hãi kinh hoàng, Đừng, cầu trời, không phải là một chiếc máy bay nữa ở dưới đó.

Một cô gái phụ trách quay phim đang khóc.

Dù không muốn, hắn cũng nhìn xuống một cách chăm chú. Lúc đầu, mọi thứ có vẻ bình thường. Dưới là con đường cao tốc – một dải ruy băng nhựa đường thanh mảnh chạy vòng quanh những khu nhà hiện đại xây dọc bờ biển một cách tự hào. Trong thoáng chốc, nỗi sợ hãi của hắn như được giải tỏa.

Nhưng ngay sau đó, hắn nhận ra mình đã sai lầm.

Một nữ thư ký đang cả người run lên bần bật. “Ngoài kia. Có thấy không? Xa ngoài kia… đám khói ý. Vừa nãy còn ở trên trời. Nó vừa mới rơi…”

“Hãy để máy móc của chúng ngừng hoạt động,” vị Imam kia đã nói như vậy.

Bọn chúng đã làm thế nào để có thể phối hợp sắp xếp chuyện này? Có đến hàng trăm người trong những chiếc máy bay kia. Chính mình cũng vừa mới bay tuần trước, Hassan tự hỏi chính mình.

Chuông điện thoại thi nhau réo trong phòng tin tức, nhưng các nhân viên vẫn đứng nguyên bên cửa sổ.

Một ai đó nói, “Vị Imam ấy vừa nói đến điều này…”

Một người khác nói, “Không, ông ta nói sẽ còn có nhiều vụ nữa. Ông ta nói các sự kiện ấy sẽ liên quan đến các nước, chứ không phải chỉ vài chiếc máy bay.”

Hassan chợt cảm thấy trái tim bị bóp nghẹt bởi một nỗi khiếp sợ thực sự. Ông ta đã nói chuyện này sẽ liên quan đến các chính phủ, liên quan đến quân đội. Ông ta đã nói sự sụp đổ sẽ diễn ra chỉ trong vài ngày nữa thôi.

Một thế giới có thể chuyển sang một kỷ nguyên mới, nhưng con người- phần lớn trong số họ- không nhìn thấy điều đó lúc nó xảy ra.

“Sẽ có một lời giải thích rõ ràng logic cho những sự kiện hôm nay,” Hassan hứa, tìm cách trấn an các nhân viên của mình. Nhưng cũng lúc đó, hắn đang nghĩ rằng, có lẽ sẽ không có lời giải thích nào cho logic. Có lẽ, Chúa trời là cách giải thích logic. Có lẽ một thời kỳ đen tối từng được nhắc đến trong kinh Koran đang xảy ra, và những sự kiện tương tự ngày hôm nay cũng đã từng xuất hiện trong kinh Thánh.

Và với cú điện thoại mà hắn nhận được ngay sau đó vài phút, nỗi kinh hoàng tăng vọt đến mức làm hắn có thể trụy tim.

“Người bạn cũ của anh đang nói đây,” một giọng nói quen thuộc thì thầm, “Anh đã truyền đi câu chuyện nhỏ kia chứ? Anh đã nói với những người bạn ở nước ngoài về cái hang động kia phải không?”
  (1) tác giả liên hệ đến các biệt thự trên dải đảo nhân tạo ở Dubai – tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE) – google “Dubai houses” hoặc xem http://www.dubaipropertygroup.com/ chẳng hạn như cái này:


(2) Tums: một loại kẹo thuốc cung cấp canxi

(3) Imam: người lãnh đạo nhà thờ (Hồi giáo) hoặc lãnh đạo tinh thần một cộng đồng Hồi giáo nhỏ; tương đương với phương trượng chùa (Phật giáo) hay thày tu/mục sư (pastor/priest) nhà thờ Thiên chúa giáo.

(4) thành phố McLean bang Virginia nước Mỹ, nơi có trụ sở của CIA

(5) dặm = ~1.6 km, nhưng mà chỉ có nước Mỹ mới dùng dặm thôi, sửa lại thành km cho hợp với Pakistan

(6) fatwa: lời giảng của một giáo sĩ Hồi giáo giải thích ý nghĩa kinh Koran.
Ngày thứ Hai đen tối

Tác giả: Scott Reiss


Chương III
Dịch: lostinstranlation
Biên dịch/Biên tập: Ooppss
Nguồn: www.tangthuvien.com

BA
Ngày ba mươi tháng Mười, hai ngày sau khi cơn dịch bùng nổ




Cho tới đêm trước lễ Halloween, tức sáu mươi ba giờ sau năm vụ rơi máy bay, không có thêm vụ rơi máy bay nào mới xảy ra. Mức báo động khủng bố vẫn ở mức cao nhất nhưng các nhà làm chính trị ở Washington đã cảm thấy dễ thở hơn. Các chuyến bay đã hoạt động trở lại. An ninh được tăng cường ở các phi trường. Một vị Imam ở Pakistan, theo đánh giá của các chuyên gia tình báo, đã phóng đại lời đe doạ, các tổ chức khủng bố vẫn thường hay tung hỏa mù như vậy.

Gregory Gillette, một chuyên gia dịch tễ ba mươi chín tuổi sống ở khu tây bắc của Washington DC, đang nướng xúc xích và thịt bò băm viên cho những người láng giềng của mình đang sắp hàng chờ ngoài cửa.

Anh đang nghỉ ngơi sau hai ngày căng thẳng bàn thảo tình hình chiến tranh ở Lầu Năm Góc để chuẩn bị đối phó với các vụ tấn công sinh học, chờ đợi làn sóng khủng bố được dự báo bởi đài truyền hình Al Jazeera. Việc bàn thảo sắp xếp chuẩn bị mọi thứ từ thuốc men dự trữ, cho tới việc sơ tán người trong công sở và khách sạn sao cho trật tự, chuẩn bị các phòng thí nghiệm kiểm tra bào tử bệnh than, và giường bệnh trong bệnh viện phải luôn sẵn sàng.

Lúc này Gillette chỉ mong hai người bạn thân nhất của anh ngừng cãi nhau về những vụ máy bay rơi. Cuộc tranh luận là cần thiết, nhưng hai người lại tranh luận hăng và to tiếng quá, dọa chết khiếp những cậu bé trong hàng chờ lấy thức ăn.

“Nói thật nhé,” Les Higuera nói, “các chuyên gia đã kiểm tra tất cả các máy bay trong nước. Họ kiểm tra từng động cơ một. Không có vấn đề gì với chúng cả, vì thế các chuyến bay đã được phép cất cánh trở lại.”

Les là người chịu trách nhiệm sản xuất Newsline – một chương trình mới của đài truyền hình ABC. To con, ngăm ngăm đen và dễ bị kích động, anh chàng này thường biết được những tin nóng và quan trọng sớm hơn những người khác trong khu phố.

“Chính phủ lẽ ra phải đình chỉ tất cả các chuyến bay cho đến khi thợ lặn tìm được những chiếc máy bay bị rơi. Sau khi tìm được nguyên nhân, ai đó phải có lời giải thích rõ ràng tại sao chuyện này lại xảy ra,” Bob Cantoni ngắt lời. Bob hai mươi chín tuổi, từng là lính thủy đánh bộ, một người vận động hành lang tích cực cho Hội Súng trường toàn quốc, và là một người ủng hộ tự do chính trị cho mọi vấn đề ngoại trừ việc kiểm soát súng. Anh ta là người duy nhất trong khu phố sở hữu vũ khí, một khẩu shotgun Remington, và một khẩu 9 mili Sig Sauer. “Cái gã điên ở Pakistan đã dự báo những cuộc tấn công còn lớn hơn thế.” Bob nói tiếp.

“Anh muốn bọn khủng bố điều khiển và quyết định cách sống của chúng ta?” Bob chất vấn.

Greg nói nhỏ, “Chúng ta có thể thảo luận những chuyện này sau.”

Buổi liên hoan mùa thu đêm chủ nhật hàng năm của phố Marion rất vui vẻ, và nhộn nhịp. Gillette đang tận hưởng nó với những người anh yêu quý, ở một nơi rất xa khỏi cái khu nhà xe kéo Georgia, nơi mà anh đã được sinh ra, cách xa nhà cha mẹ nuôi nơi mà anh đã lớn lên, và cũng cách rất xa những trung tâm quản giáo (trại giam cho trẻ vị thành niên) - nơi mà anh đã trải qua phần lớn tuổi thơ của mình.

Chỉ cách Nhà Trắng có sáu kilomet, khu phố Marion ngắn và rợp bóng mát, chỉ có 8 gia đình nhỏ. Một căn kiểu Tudor của Anh nhỏ xíu. Căn nhà gạch của gia đình Gillette theo kiểu dáng giống toà nhà của chính phủ liên bang. Một vài căn nhà nhỏ một tầng và những căn nhà liền vách được nâng cấp. Nhìn vào, khu phố thực sự không gì đặc biệt. Có lẽ đó chính là lý do anh yêu thích nó. Anh đã làm việc ở rất nhiều nơi đầy tai ương hỗn loạn - gây ra bởi hạn hán, dịch sốt rét, dịch tả - Marion vì thế với anh như là một thiên đường.

Lúc này, giao thông ra vào khu phố ở cả hai đầu đều bị chặn lại bởi những bàn cưa gỗ. Đèn lồng giấy màu cam và xanh dương được treo trên những cây sồi và cây thông, và những quả bí ngô rỗng ruột được khoét hình đầu lâu thắp nến bên trong đang nở những nụ cười nhăn nhở nằm trên các bậc cửa. “Hàng ăn Mễ Tây Cơ” được mở trên đường vào nhà của Higuera. “quán bar rượu” thì ở hiên nhà của Cantoni. “Quầy đồ ăn tráng miệng” thì được sắp ở đường vào nhà của Eleanor Holmes, một vị thẩm phán của thành phố, cùng với chồng tên là Joe, một tay thầu xây dựng.

“In the Mood”- bài nhạc jazz của thời đại nhạc swing, được phát ra từ bộ loa đủ dịu để không làm phiền các hộ gia đình ở khu Ingomar bên cạnh, nhưng cũng đủ lớn cho mọi người cùng nhảy trên phố. Gillette nhìn thấy vợ mình, Marisa – một cô giáo, đang nhảy hết mình với Paulo, đứa con trai nuôi mười hai tuổi, và Annie, đứa con gái nuôi mười bốn tuổi. Annie nhảy trông rất đẹp mắt.
Mình là một người đàn ông may mắn, anh tự nghĩ.

Les lại lôi chuyện về những vụ rơi máy bay ra bàn cãi. “Tại sao tất cả những chiếc máy bay đó lại rơi xuống biển ở ngoài khơi? Bởi vì như thế người ta sẽ không tìm được những chiếc hộp đen có chứa những dữ liệu kỹ thuật của chiếc máy khi xảy ra tai nạn.”

Trời cuối thu nhưng hôm nay nhiệt độ khá ấm áp. Sao bắt đầu mọc, lá cây đã loáng thoáng điểm màu vàng ruộm. Gillette là cựu sinh viên của trường đại học Georgia Tech theo diện học bổng quân đội (ROTC) và cũng là cựu sinh viên y khoa của trường đại học Georgetown, người gầy, cao mảnh khảnh, mặt tàn nhang với một vết sẹo dưới mắt trái, dấu vết của vụ ngã xe gắn máy mà anh ăn trộm hồi niên thiếu, khi tìm cách thoát khỏi sự truy đuổi của cảnh sát. Anh có mái tóc đen dày và cặp mắt màu xanh nước biển – mà Marisa hay thường khen: “một sự kết hợp chết người.” Anh trông đẹp trai mỗi khi anh cười, ngay cả lúc đang đeo tạp dề làm đầu bếp. Chẳng hạn như bây giờ.

Cuộc đời của Gillette bước sang một trang mới ở tuổi mười sáu, khi trại giam mà anh đang bị quản thúc có dịch bệnh lao. Tất cả mọi người từ bạn tù cho tới quản giáo, từ những người mà anh kinh khiếp hay kính trọng lúc đó – tất thảy đều run rẩy sợ hãi. Chỉ có vị bác sĩ đến từ Trung tâm kiểm soát dịch bệnh quốc gia (CDC) – Wilbur Larch- là giữ được bình tĩnh.
Mình muốn lớn lên giống như bác ấy, cậu bé mười sáu tuổi đã quyết định như vậy, và ở lại xin được giúp việc, trong lúc những đứa trẻ khỏe mạnh khác được sơ tán khỏi trại giam. Bác sĩ Larch lúc đầu từ chối, nhưng sau đó bắt đầu giúp đỡ anh, thu xếp cho anh làm việc hè tại CDC, xin giảm điều kiện nhập học khi vào đại học và trường y. Bác sĩ Larch đã trở thành người thày hướng dẫn (mentor) của anh.

Lúc này, mọi người lại lo lắng quay lại bàn thảo chủ đề xoay quanh những vụ máy bay rơi vừa rồi. Thẩm phán Holmes nói “Tất cả các máy bay rơi đều có chặng dừng chân ở Riyadh. Bọn khủng bố rõ ràng đã làm trò khỉ gì đó với động cơ máy bay.”

“Tôi được biết rằng sân bay Riyadh đã bị đóng cửa, và có ba người làm việc ở đấy bị tạm giam,” Chris Van Horne nói. Ông là linh mục của nhà thờ St. Paul thuộc giáo hội tin lành Lutheran, sống cách Gillette ba căn hộ, người nhỏ thó, đầu hói, và nói to, hai tai đều phải đeo máy trợ thính.

Mọi người đang sắp hàng cả người lớn lẫn trẻ con, đều ngó lên nhìn trời. Một đêm trăng tròn, sáng, trời không gợn chút mây. Gillette nhìn rõ những ánh đèn xanh đỏ trên những chiếc máy bay đang hướng về phi trường Reagan.

Bob Cantoni rùng mình: “Les, cái kênh truyền hình của anh cứ chiếu đi chiếu lại mấy lời nói cuối cùng từ các khoang lái máy bay. ‘Động cơ số một đã ngưng hoạt động. Động cơ số bốn đã ngưng hoạt động.’ Chúa ơi, chúng ta đã có thể là những hành khách ngồi trên mấy chiếc máy bay đó. Có đến hơn một ngàn người …”

“Thôi đủ rồi,” Gillete nghiêm nghị nói. “Theo các anh thì ai sẽ thắng trong trận đấu đêm mai? Da đỏ hay Khổng lồ? (1)

“Tôi bắt đội nào mà không đình công,” Bob nói.

Les ngắt lời, “Tại sao mấy tay chơi bóng bầu dục lại không được phép đình công như mọi người khác, hả lão phát xít kia?”

Vẫn như mọi khi, cánh đàn ông vừa dời đi vừa tiếp tục tranh cãi.

Đứng sắp hàng ngay sau họ lấy thức ăn là Grace Kline, cô bé 9 tuổi nhỏ nhắn ở phía dưới cách nhà Gillette hai căn. Cô bé đã có cảm tình và bắt đầu mê mẩn Paulo từ khi cu cậu hạ đo ván một đứa bắt nạt cô ở trường. Chris và Neil, bố mẹ của cô, đều là luật sư làm cho Sở Bảo vệ Môi trường.

“Có phải chú thực sự làm trong Hải quân không?” cô bé hỏi Gillette trong lúc đưa ra cái đĩa giấy để nhận đồ ăn. “Mẹ cháu nói vậy.”

“Nói thế cũng đúng đó.”

“Cháu lại tưởng chú là một bác sĩ.”

“Một loại bác sĩ đặc biệt, cháu cưng ạ. À như vầy, khi có người ốm, có những lúc thậm chí các bác sĩ cũng không biết làm thế nào để họ khá hơn thì chú sẽ đi tìm nguyên nhân. Chú làm cho một cơ quan của chính phủ hay đúng hơn là một bộ phận trực thuộc Hải quân. Bọn chú chuyên đi săn tìm các mầm bệnh.”

“Chú có phải mặc đồng phục không?”

“Thỉnh thoảng thôi.”

“Chú là đô đốc hải quân hả?”

“Một trung tá hải quân thôi.” Gillette cười vang.

“Chú có súng chứ?”

“Chú có một chiếc kính hiển vi. Cứ sang nhà chú nếu cháu muốn hỏi thêm, và chú sẽ giải thích cho. Còn nhiều người đang đói sắp hàng sau cháu đấy. Cháu muốn bánh mì kẹp xúc xích hay kẹp thịt bò băm, Grace?”

“Mẹ cháu nói mọi người trong khu phố ai cũng làm bạn với nhau là nhờ chú. Chú biến khu phố này thành một khu làng của riêng chúng ta.”

Cô bé bước đi, miệng gặm một miếng thịt bò băm viên đầy mù tạt, còn Gillette gạt sự bất an về những vụ rơi máy bay ra khỏi đầu. Cô bé nói đúng về khu phố Marion, nó đã vô tình trở thành ngôi làng mà cư dân gọi thành làng Marion (2), nằm gần phố Connecticut và cắt phố Nebraska. Trạm cứu hỏa gần nhất cách hai khu phố, đối diện với cửa hàng dược phẩm CVS. Những hàng ăn, cửa hàng, và trạm xăng gần nhất cùng nằm gần nhau trong một khu phố, cách căn nhà gạch của anh bốn phút đi bộ.

Vô hình chung, nhiệm vụ của Gillette là giữ cho khu phố được an toàn.

Những đứa trẻ con của làng Marion luôn luôn đi bộ tới Montessori hay các trường tiểu học công lập đằng sau trạm cứu hỏa. Có ba nhà thờ ở gần đấy, một vài căn hộ cổ, một rạp chiếu phim, một nhà sách, và một vài văn phòng bác sĩ.

Mọi người ở đây biết giúp đỡ lẫn nhau, quan tâm đến người khác, đến những đứa trẻ khác trong khu.

Cũng có một vài xích mích, tất nhiên, nhưng phần lớn là một cuộc sống thoải mái dễ chịu. Tạp chí “Người Washington” đã đánh giá khu phố là “tuyệt nhất toàn nước Mỹ.” Kể cả trong giờ cao điểm, cư dân khu phố làm việc cho chính phủ cũng có thể dễ dàng lái lên trung tâm thành phố, trong số đó có người được coi là lãnh đạo của khu phố này. Gillette.

"Ôi, bác sĩ Gillette. Có ai đó đã lấy trộm cái máy thổi lá cây mới mua của tôi ở trong ga-ra," Alice Lee, người đứng kế tiếp trong hàng, than vãn. Bà là một quả phụ và hiện làm bán thời gian cho cửa hàng sách Politics & Prose, còn trước đấy bà là nghệ sĩ violin của dàn nhạc giao hưởng quốc gia. "Cái máy bỗng nhiên ngừng chạy. Tôi chạy vào trong nhà để gọi cho bọn Sears (3). Khi tôi quay ra thì nó đã biến mất. Ai có thể đi trộm một cái máy thổi lá cây chứ?"

"Chắc là ai đó ở 5110 Connecticut," Gillette đoán và thở dài, nghĩ đến cái khu nhà chuyên gây ra những rắc rối của khu vực này.

Re...e..nggg, tiếng chuông điện thoại trong bếp của anh vang lên qua cửa sổ để mở. Anh lờ đi. Những cú gọi khẩn cấp không được gọi qua số điện thoại nhà cố định, mà phải vào số di động đặc biệt do Lầu Năm Góc cung cấp.

"Anh có phiền với một câu hỏi riêng tư không? Thường thì phải ba ly rượu gin pha, nếu mới uống có hai ly, em sẽ không tò mò thọc mạch vào chuyện người khác đâu," một cô gái tóc vàng có vẻ chuếnh choáng cười khúc khích nói, tay thậm chí chẳng có cái đĩa thức ăn nào. Đó là Gail Hansen, chủ một cửa hàng tranh ở phố P, người thường xuyên trêu chọc tán tỉnh Gillette. Cô nàng thường lượn quanh nhà anh khi thấy anh ở ngoài sân, gọi điện nhờ giúp đỡ nếu nhà của cô bị hỏng hay vỡ gì đó, hay mời anh và bọn trẻ sang ăn tối mỗi lần Marisa lên Vermont thăm cha mẹ.

"Gail, anh biết em rất ghét những chuyện thọc mạch."

"Em hay tự hỏi, tại sao anh lại nhận con nuôi thay vì có con cho riêng mình? Ý em là, với cô vợ xinh đẹp của anh đó?"

"Anh đã yêu chúng ngay tức thì khi anh gặp chúng, Annie ở Sudan, Paulo ở Brazil," Gillette đáp, nhưng nửa còn lại của câu trả lời là, bọn anh không thể sinh con một cách tự nhiên, có được hai đứa trẻ kia là một hạnh phúc may mắn vô cùng.

Chọn bánh mì thịt bò băm thì đủ loại câu hỏi. Chọn xúc xích thì đủ lời nói đùa.

“Tạp chí Smithsonian có bài “Người săn tìm vi khuẩn” viết về anh có đúng không? Việc anh đã chặn đứng được một vụ dịch ở căn cứ Không quân ở Phillipines? Việc anh được thư khen của tổng thống?"

Anh nhớ lại một khu bệnh viện với hàng chục đàn ông phụ nữ bị bệnh; người co giật, miệng rên rỉ, mất trí. Thiếu tá Novak và mình đã tìm được nguồn của bệnh brucella (4) là từ một nhân viên phục vụ nhà ăn, và bọn anh đã dùng doxycycline - một thành phần trong thuốc trụ sinh Tê-tra - để trị dứt bệnh dịch.
Bất kỳ ý nghĩ nào về thiếu tá Theresa Novak là Gillette lại cảm thấy lúng túng ngượng nghịu, và lần này cũng vậy.

“Anh chỉ là một công chức tẻ nhạt mà thôi,” Gillette đáp. Được bổ sung từ Trung tâm Kiểm Dịch quốc gia sang giúp bên Phòng chống vũ khí sinh học.

Điện thoại trong nhà vẫn không ngừng reo. Có lẽ mình nên vào trả lời, đưa cái nĩa nướng thịt cho ai đó…

Nhưng rồi anh nhìn thấy một nữ cảnh sát đang đi bộ về phía mình. Một cảnh sát khu vực và cũng là công dân của khu làng Marion. Cảnh sát viên Danyla là một người mẹ độc thân (có con nhưng không lập gia đình) mà Gillette giúp đỡ hè năm ngoái; anh đăng ký cho con của cô, một cậu bé bị bệnh xơ cứng tủy não, tham gia vào một chương trình trị bệnh thí điểm được tài trợ bởi Quỹ khoa học quốc gia.

“Chúng tôi đã tìm ra xe đạp của Paulo, Greg ạ. Anh có muốn đi gặp kẻ tình nghi không? Nhưng mà chúng ta sẽ phải đi bộ. Xe của đội chúng tôi vừa chết máy. Một nửa số xe của đơn vị không hoạt động. Ông chỉ huy trưởng của đơn vị cho là ai đó đã bỏ đường vào bình xăng, nhưng tôi không hiểu làm thế nào bọn phá hoại có thể chui vào bãi đậu của cảnh sát được.”

Trong những giờ phút cuối cùng của một ngày êm ả, những chuyện rắc rối như vậy là những vấn đề xấu nhất Gillette phải đối mặt.

Một chiếc xe đạp bị mất cắp. Một chiếc máy thổi lá cây bị ăn trộm. Một cảnh sát phải đi bộ vì xe bị hỏng.

o0o

Chú thích:

(1) ‘Skins hay Redskins: một đội bóng bầu dục Mỹ chuyên nghiệp ở thủ đô Washington D.C.
Giants: một đội bóng bầu dục Mỹ chuyên nghiệp ở thành phố New York
(2) Marionville
(3) Sears - một hệ thống cửa hàng lớn bán đồ gia dụng
(4) khuẩn brucella, gây sốt cao và đau đầu truyền từ thịt sữa động vật có nhiễm khuẩn, có thời được Mỹ phát triển thành một loại vũ khí sinh học.
Ngày thứ Hai đen tối

Tác giả: Scott Reiss


Chương III (phần 2)
Dịch: lostinstranlation
Biên dịch/Biên tập: Ooppss
Nguồn: www.tangthuvien.com  
“Cháu không có ăn trộm cái xe đạp. Cháu thấy nó nằm chỏng trơ trên phố nên mới lấy đi một chút thôi. Cháu đang định đi tìm chủ nhân của nó để trả lại đấy chứ.”

Có những góc trong vũ trụ mà những kẻ thối tha tụ họp, Gillette biết vậy, cho dù cái ý tưởng đó Einstein không hề lập thành một định luật của vật lý. Nhà 5-1-1-0 phố Connecticut, hay còn gọi là “Ốc đảo,” nhìn rất đẹp từ bên ngoài. Một khu nhà được xây dựng trước chiến tranh, đá rêu đen, với các tượng hình đầu thú và người theo kiểu gôtíc trên mái và vòm cửa sổ được làm bằng gạch. Nhìn lướt qua, nó không khác mấy những khu nhà tập thể hay cho thuê khác được chăm sóc tốt dọc trên khu phố. Nhưng Gillette biết ngôi nhà đang xuống cấp nghiêm trọng. Người chủ nhà mới của ngôi nhà đang cố gắng đẩy mấy người thuê nhà ra bằng cách giảm thiểu tối đa các loại sửa chữa, để hắn có thể chuyển 5110 thành khu nhà tập thể. Hệ thống điện bị hư một vài chỗ. Một vài hộ đã bị bỏ trống. Thang máy cần sửa chữa và bảo trì. Năm ngoái đã có hai vụ cháy từ những căn hộ bỏ trống.

Số phận của tòa nhà sẽ được tòa án phán quyết.

Có những cư dân đang phải chịu đựng tình trạng tồi tệ của khu nhà nhưng vẫn không dọn ra được, chẳng hạn như những người già, một là không thể tìm chỗ thuê nhà khác khả dĩ hơn, hai là ở lại bởi vì tòa án đã có lệnh cấm tăng tiền thuê nhà. Đôi khi họ quá chán nản không còn muốn để ý đến việc chuyển đi chỗ khác. Hoặc là hồ sơ tín dụng của họ quá kém, họ không đủ tiêu chuẩn để có thể mướn được chỗ khác tốt hơn.

Gần đây sự tồi tệ của khu nhà đã bắt đầu ảnh hưởng tới toàn bộ khu phố lân cận. Đầu tiên là việc cảnh sát bắt giữ một người phụ tá của một Thượng nghị sĩ từ Tampa, tay này sống trong một hộ ở căn 5110 và gửi điện thư đe dọa đánh bom Nhà Trắng. Rồi đến đôi nam nữ sinh viên trường đại học American bán ma túy để có tiền mua vui, thu hút khách suốt ngày đêm. Nếu ba giờ sáng mà có tiếng nhạc ầm ầm trong khu phố, thì nhiều khả năng nó phát ra từ căn 5110. Tháng bảy rồi, khi xuất hiện có chuột cống trên đường phố, nhân viên y tế đã tìm thấy ổ của chúng ở dưới tầng hầm của tòa nhà, dưới điều kiện vệ sinh vô cùng tồi tệ. Thanh danh của căn 5110 ngày một xấu đi, và cư dân của khu nhà cứ thế giảm dần.

Lúc này Gillette, Paulo, Annie và Marisa đang đứng trong khoảng sân nhỏ bên ngoài căn 5110, với hai cảnh sát vận đồng phục và Theodore “Teddie” Dubbs, trông nó to con hơn cái tuổi mười bốn của nó, khôn ngoan, lỳ lợm, được sự ngầm trợ giúp của cha nó tên là Gordon. Gordon làm nhân viên bảo vệ cho nhà kho của hội từ thiện “Three Faith Charities” ở gần khu vực sân bay, ông ta nổi tiếng với cái tính nóng như lửa, bị hàng tá biên bản phạt và tố cáo bởi cảnh sát và đồng nghiệp ở chỗ làm. Gillette biết được điều này từ các viên cảnh sát. Dubbs trước đây cũng từng có thời làm cảnh sát.

“Tao có nhìn thấy mày mang một theo một cái cưa dây xích, Dubbs,” Paulo nói với thằng bé to con hơn nó. Tháng trước hai đứa vừa choảng nhau đến chảy máu mũi khi Teddie định cướp đồ một đứa bạn của Paulo sau một trận bóng rổ ở nhà thờ. Paulo không hề sợ hãi, cho dù nó bé con hơn.

“Mày lấy cái cưa xích đó từ một cái xe van,” Paulo tiếp.

“Thật bố láo,” Gordon Dubbs gắt, “Teddie không biết lái xe. Nó còn quá nhỏ.” Gordon, đã ly dị vợ, vai rộng, tóc hung, là một cựu thám tử điều tra đẹp trai, đang mặc một áo phông trắng sạch sẽ với quần suspender màu đỏ (loại quần có hai móc choàng qua vai thay cho đeo thắt lưng). Đã ngoài bốn mươi, hắn vẫn tức tối với việc bị đuổi khỏi ngành cảnh sát.

“Tao dám chắc là mày cũng ăn cắp máy thổi lá cây của Alice nữa,” Paulo nói với Teddie, không chút nhân nhượng. “Tao còn dám chắc mày đã đem mấy đồ đó đi bán rồi.”

“Nếu Paulo đã nói điều gì, thì đó là sự thật,” Marisa nói với hai viên cảnh sát, tay nắm chặt lại thành nắm đấm.

Teddie Dubbs quay sang nhìn Marisa một cách khinh bỉ, nhưng trong mắt Gillette nàng đêm nay đẹp một cách lạ thường. Mặt Marisa đang đỏ bừng giận dữ, người chắc lẳn trong cái quần jean và áo thun, đôi chân dài mang đôi giày tennis xinh xắn, còn mái tóc vàng xõa xuống đến cặp mông tròn lẳn hấp dẫn.

Teddie cười đểu. “Nếu thằng nhỏ này là con bà, tại sao nó có màu da thế này hả bà Gillette? Bà lang chạ với những ai ngoài chồng bà rồi?”

Gillette bước lên một bước về phía thằng bé và thằng Dubbs cha cũng ngay lập tức đứng đó, sẵn sàng đánh nhau. Hai viên cảnh sát ngăn cản hai người đàn ông. Từ trung tâm thành phố bỗng vang đến tiếng còi rú. Có lẽ là một vụ tai nạn hay vụ cháy ở đó, Gillette nghĩ.
“Tiên sư bố cả họ gia đình nhà mày,” Teddy nói.

“Đừng có chửi bậy,” Gordon nói, gắng nhịn cười.

“Mày mà đụng vào em tao thì tao đập vỡ đầu mày ra,” Annie nói, con bé bằng tuổi với Teddie và cũng rất xinh đẹp. “Thực ra thì, tao chẳng cần làm điều đó, em tao sẽ xử mày trước rồi.”

“Nó chẳng phải em ruột mày. Mày da đen còn nó thì giống như gốc Mễ hay là đến từ mấy nước của đám công nhân nhập lậu hèn hạ bần tiện.”

“Tao từ Brazil,” Paulo nói, khuôn mặt tròn vẻ giận dữ. Mái tóc xoăn của nó rối bời. Nó hít một hơi sâu làm các cơ bắp nổi lên. “Chúng tao tự lựa chọn yêu thương nhau để lập nên gia đình này,” Nó nói thêm, lời nói mà Gillette và Marisa vẫn dạy. Gillette cảm thấy rất tự hào khi nghe thấy điều đó.

Nữ cảnh sát viên Danyla hỏi Paulo, “Cháu có nhìn thấy bạn này lấy xe của mình không?”

“Chẳng ai nhìn thấy điều đấy cả. Thằng đó khôn lắm.”

Đêm nay sẽ không có biên bản nào được lập. Hai gia đình được kéo tách ra. Từ một cửa sổ tầng sáu của khu nhà 5110 vang lên tiếng nhạc rock đinh tai nhức óc.

Teddie gọi với Paulo khi họ đang bỏ đi, “Chờ đấy, thằng lùn kia, rồi sẽ đến lượt tao.”

Và có lẽ Dubbs cha cũng đang nghĩ như vậy, với cách hắn nhìn Gillette.

o0o

“Anh còn nhớ không? Hồi đó còn lo bố mẹ em sẽ bắt gặp cảnh chúng ta ngủ với nhau, còn bây giờ thì cứ lo ngay ngáy hai đứa con đi vào trong lúc đang hành sự?” Marisa nói.

Ánh trăng đang chiếu qua khe cửa sổ, hắt ánh sáng dìu dịu vào tấm lưng trần của Marisa chỉ còn chiếc quần tắm đang cưỡi trên người Gillette. Cô ngồi trên đùi anh, tay chống trên ngực, tóc cô loà xoà quét qua trán anh, mắt mở to nhìn say đắm, đầu ngực căng cứng.

Lúc này đã là mười một giờ ba mươi phút khuya, căn nhà chìm trong yên tĩnh, bữa tiệc đã kết thúc, đường phố nhìn xuống từ phòng ngủ của hai vợ chồng trên tầng hai vắng ngắt không một bóng người. Những tin nhắn điện thoại trước đó hóa ra chỉ là quảng cáo bán bất động sản. Gillette nghe loáng thoáng tiếng tivi đều đều của nhà nào đó trong khu phố. Những người láng giềng của anh thường không thức khuya thế này, chắc có chương trình gì đó hấp dẫn trên đài.

Cảm giác đê mê ngây ngất làm anh chỉ vô thức cảm nhận được những tiếng còi xe vọng từ đường Connecticut tới. Thường thì đêm chủ nhật đường phố đáng ra phải thông suốt không trở ngại gì.

Chỉ còn ba mươi phút nữa là sang ngày cuối cùng của tháng Mười.

“Ngừng nào,” Gillette bảo Marisa.

“Ngừng cái này phải không?” Marisa nói tỉnh bơ, hai tay mò xuống nắm lấy cái của quý to tướng của anh chồng, ngón tay đầy dầu bôi trơn vuốt lên vuốt xuống. Hộp dầu bôi trơn đang để dựng trên bàn cạnh giường ngủ

Đây là một trò cũ của hai vợ chồng. Ai ra trước là thua, và người thua phải nấu bữa tối cho ngày hôm sau.

“Đúng rồi, cái đó,” anh nói, giọng khản đặc.

“Có lẽ anh muốn em làm thế này,” cô nói, hơi nhổm lên kéo nhẹ quần lót lụa sang một bên và hai người nhẹ nhàng nhập thành một. Gillette quờ tay ra sau lưng cô, dọc xương sống có một điểm nhạy cảm giữa hai xương bả vai mà Marisa rất thích, anh dùng móng tay mình cào nhẹ.

“Ăn gian quá,” cô kêu lên.

Gillette rướn về phía ngực phải của cô và cắn nhẹ.

“Em ..sẽ…chịu…được ....lâu…hơn… anh,” cô nói.

“Em kiên cường quá,” anh đáp, rồi chuyển mình nhanh hơn.

“Anh cứ làm thế này em sẽ gào thét lên đánh thức bọn trẻ mất,” cô thầm thì.

Anh ghì chặt đùi cô, cảm thấy mồ hôi thấm vào trong mắt cay xè.

“Đểu quá,” cô kêu lên. “Anh mà không làm chậm lại, em sẽ không xin Neil Kline vé đi xem Da Đỏ đánh bóng bầu dục cho anh nữa.”

Cửa sổ vẫn mở, trời về đêm vẫn nóng ấm. Khi Gillette kiểm tra hai đứa con lần cuối trước khi đi ngủ nửa giờ trước, Paulo đã chui vào giường ở phòng nó, trên đầu giường có treo một bức tranh áp phích hình Lance Armstrong (5). Ở bàn học bên cạnh giường là bản in bài báo cáo về chuyện mất mùa khoai tây ở Ailen những năm 1840 cho lớp khoa học thường thức.

“Con thực sự là một cậu bé mười hai tuổi, hay là nghiên cứu sinh lấy bằng tiến sĩ vậy?” Gillette đã hỏi một cách tự hào ngày hôm qua, khi đọc qua bản nháp thứ hai của con trai.

“Bố thử nhìn mấy bức tranh cũ kỹ này xem. Một triệu người chết đói vì một loại vi sinh phá hỏng cây lương thực duy nhất của họ. Khi con lớn lên con muốn giống bố, chuyên đi săn tìm những loại vi trùng độc hại.”

Ah, Paulo. Cha ruột của nó đã chết vì bệnh sốt rét.

Trong phòng ngủ trong cùng, Annie cũng đang ngủ, đầu giường có treo một bức ảnh phóng to của nó đang cho một chú báo hoa bú bình ở Sở thú Quốc gia – một bức tranh quảng cáo đang được treo ở hệ thống tàu điện ngầm. Là một thành viên tình nguyện của nhóm “những người bạn của sở thú,” Annie gần đây đã được phép giúp chăm sóc những con thú con.

Ah, Annie.

Annie đang tuổi lớn nên cao lên rất nhanh, như một người Dinka (6). Con bé gầy như một người mẫu. Gillette lần đầu tiên gặp Annie khi nó còn là một đứa bé mười tám tháng tuổi trong một trại bảo dưỡng trẻ em ở miền nam Sudan, khi anh đang giúp nơi đó chống lại một cơn dịch tả. Mẹ ruột Annie lúc đó sắp chết, còn tỉ lệ phát triển (cân nặng chia chiều cao) của con bé mười tám tháng tuổi thấp đến mức nó được xếp vào loại không nên cho ăn nữa vì sắp chết.

Những đứa con của mình nó đã lớn như vầy rồi.


Ngay cả lúc này, khi hai người đang ân ái, anh biết Marisa, cũng như anh, luôn hướng sự quan tâm về hai đứa nhỏ đang ngủ phía cuối hành lang. Có lẽ gần đây bậc cha mẹ nào trên thế giới cũng trở nên lo lắng hơn cho những đứa con của mình. Một chiếc máy bay rơi ở một nơi cách đây nửa vòng trái đất và ý nghĩ đầu tiên trong đầu của bạn là, “mấy đứa con của mình đang ở đâu?” Một tín đồ tôn giáo cuồng tín điên rồ ở cách đây mười múi giờ dự báo tai họa sắp ập tới, và bạn không thể ngừng lo nghĩ đến những đứa con của mình.

Thịch!

“Cái gì đấy?” Marisa kêu lên, nhìn lên trần nhà và chậm lại.

“Chắc lại mấy con gấu mèo Bắc Mỹ leo lên mái nhà,” anh đáp.

Thụp…

Anh ôm vợ vào lòng, nhưng chiếc giường bỗng trượt ngang hơn một mét. Chiếc gương vỡ vụn trên rương tủ. Cánh cửa sổ bật tung bay vào phòng và căn nhà rung lên. Annie, cô bé mồ côi vì chiến tranh đang bắt đầu hét lên.

“Cái gì thế nà..à..y…?”

Không khí như bị hút vào trong phòng và những bức tường cong và bị thu nhỏ lại bởi áp lực của tiếng nổ thứ hai. Trời đêm bên ngoài bỗng hóa thành màu cam. Anh nghe thấy tiếng ì ầm chấm dứt, rồi một cành cây gẫy rơi xuống ngay ngoài căn nhà.

Cái giường đã bị ép chặt vào bàn ngủ.

Gillette vùng dậy, phóng về phía phòng mấy đứa trẻ….

Paulo đang đứng co rúm ở hành lang, tay cứng đờ ép sát người, mắt mở to sợ hãi như một đứa trẻ bốn tuổi.

“Một người đàn ông rơi từ trên trời xuống bố ơi.”

Annie bám lấy anh và hét lên. Con bé chỉ là một đứa trẻ sơ sinh khi phiến quân Sudan bắt bố ruột nó đem đi, nhưng Gillette luôn nghĩ rằng những hình ảnh đó đã hằn sâu ghi lại trong trí óc nó. Chỉ cần tiếng súng trên TV cũng làm nó phát hoảng.

“Có một cánh tay ở ngoài ngưỡng cửa sổ phòng con.”

Cả bốn người ôm lấy nhau, kiểm tra thấy không có ai bị thương tích gì. Gillette mặc vội chiếc quần đùi, xỏ vào đôi giày rồi chạy vội xuống cầu thang. Anh để cửa mở phía sau mình. Anh có thể thấy các đám cháy từ phố Ingomar qua mái nhà của Bob Cantoni. Giữa phố Marion là một chiếc ghế máy bay nằm nghiêng, đầy khói, hình như có một xác người bị cháy đen vẫn ngồi trong đấy, dây an toàn còn cài chặt.

Anh không phân biệt nổi cái xác đó là đàn ông hay phụ nữ.

Hệ thống báo động chống ăn cắp từ các xe ô tô kêu inh ỏi. Kiếng cửa sổ nhiều nhà và xe bị vỡ vụn. Người dân trong khu phố loạng choạng ra khỏi nhà trong những chiếc áo choàng sau khi tắm (loại áo mặc trong nhà sau khi tắm xong hoặc trước khi/sau khi lên giường đi ngủ), một số người bị xây xát từ những mảnh thủy tinh vỡ, tất cả đều hoảng sợ. Họ có thể đi ra khỏi nhà, như vậy là họ không sao, không có gì nghiêm trọng.

“Chúa ơi, đó là cái gì vậy?”

“Có phải bom không?”

Gillette chạy băng qua sân sau nhà của Bob để đến đám cháy ở phố Ingomar, và nhìn thấy đuôi của một chiếc máy bay phản lực đâm vào một ngôi nhà gạch nhỏ. Lấy tay che mắt, Gillette cố gắng chống lại hơi nóng hắt ra từ đám cháy, tìm cách vượt qua cánh cửa chính của ngôi nhà phía sau cái cổng đã bị sập. Anh không biết chủ nhân của ngôi nhà này. Ở phòng khách, anh nhìn thấy từ trần nhà bị thủng một cánh tay thõng xuống, còn chân cầu thang có một chiếc xe đổ rác đồ chơi. Tiếng còi hụ cứu hỏa vang lại gần khi Gillette chịu không nổi lớp khói bụi phải chạy ra khỏi căn nhà.

Hai ngôi nhà khác cũng đang bị cháy.

“Bob! Les! Mau giúp tôi!”

Tất cả mọi người của làng Marion đã bắt đầu có phản ứng. Thẩm phán Holmes chạy đi tìm chăn để dập lửa. Annie dùng điện thoại di động gọi 911. Les Higuera đỡ một người đàn ông bị thương dựa vào cạnh một gốc cây, và lau máu trên mặt ông ta.

"Còn vợ tôi nữa, xin hãy giúp dùm," trong cơn đau nạn nhân nói với Les.

Khi cảnh sát tới nơi thì Gillette đang kiểm tra từng người bị thương đang nằm trên bãi cỏ. Anh hướng dẫn lính cứu hỏa và những người láng giềng, phân loại người bị thương ai cần có ưu tiên để được chữa trị. Giống hệt như đối phó với một cơn dịch bệnh, anh tạm thời bỏ qua những người đã chết, dành sự chăm sóc cho những người đang bị thương còn sống, xem xem ai bị thương không thể cứu khỏi và ai còn có thể cứu được.

“Mẹ ơi!” một đứa bé gào lên, lăn lộn trên bãi cỏ trong lúc Alice Lee cố gắng ôm và vỗ về nó. “Sao con không nhìn thấy gì hết...," tiếng đứa bé run run.

Gillette kiểm tra mạch và hỏi những câu hỏi quen thuộc như khi anh đối phó với dịch bệnh.

“Anh còn nhớ anh tên gì không? Có thấy đau không? Thử nói cho tôi xem hôm nay là ngày thứ mấy?”

Mới chỉ vài phút mà tưởng như hàng giờ đã trôi qua vậy, anh ngả người ra sau ngồi lên hai gót chân sau khi anh vừa giúp hô hấp nhân tạo cho một người. Marisa đưa điện thoại di động đến cho anh.

“Có người gọi anh này, Greg.”

Đó là chiếc điện thoại di động đã được mã hóa được cấp bởi Lầu Năm Góc. Anh trả lời máy, và đúng thật, phía bên kia dây nói là một nhân viên trực đêm nay của đội Phản ứng khẩn cấp. Anh ta yêu cầu Gillette đừng đi đâu, các nhân viên khác đang trên đường tới đón anh đến Lầu Năm Góc.

“Có một bệnh dịch nữa ư? Ngoài mấy vụ máy bay rơi ra?”

“Những nhân viên tới đón sẽ trả lời những câu hỏi của ngài.”

“Có phải các phi hành đoàn bị ốm hay không? Vì vậy mà máy bay rơi?”

“Ngài nói gì? Bị bệnh?” Anh nhân viên trực có vẻ bối rối. Anh ta thở hắt ra, giọng đầy vẻ sợ hãi.

“Lần này có bao nhiêu máy bay bị rơi?” Gillette hỏi.

Giọng của anh nhân viên trực nghe như người miền nam, nhưng không phải là miền nam rặc với cái giọng kéo dài của những người ở mấy bang Mississippi hay Alabama, có lẽ là từ Virginia hay Maryland.

“Ngài không xem TV hay sao? Nó đang lan ra khắp nơi. Năm giờ trước là châu Âu. Rồi New York.”

“Tôi không hiểu anh đang nói gì”

“Không chỉ có máy bay, thưa ngài,” anh nhân viên trực trả lời. “Các loại máy móc đang ngừng hoạt động ở khắp nơi trên thế giới.”




Chú thích:

(1) ‘Skins hay Redskins: một đội bóng bầu dục Mỹ chuyên nghiệp ở thủ đô Washington D.C.
Giants: một đội bóng bầu dục Mỹ chuyên nghiệp ở thành phố New York
(2) Marionville
(3) Sears - một hệ thống cửa hàng lớn bán đồ gia dụng
(4) khuẩn brucella, gây sốt cao và đau đầu truyền từ thịt sữa động vật có nhiễm khuẩn, có thời được Mỹ phát triển thành một loại vũ khí sinh học.
(5) Lance Armstrong: tay đua xe đạp nổi tiếng người Mỹ.
(6) Dinka: tộc người sống ở phía nam Sudan (châu Phi)  
Ngày thứ Hai đen tối

Tác giả: Scott Reiss


Chương IV (phần 1)
Dịch: lostinstranlation
Biên tập: Ooppss
Nguồn: www.tangthuvien.com


BỐN
Ngày 31 tháng Mười. 1 giờ 30 sáng. Ba ngày sau khi cơn dịch bùng nổ.




Chương trình phòng thủ chiến tranh sinh học quốc gia được thành lập từ năm 1996, dưới thời tổng thống Bill Clinton. Chương trình này thiết lập một trung tâm chỉ huy phản ứng nhanh tại Lầu Năm Góc để xác định và vô hiệu hóa các loại vi khuẩn hoặc vũ khí hóa học mà giới lãnh đạo lo ngại có thể được sử dụng để tấn công nước Mỹ.

“Giới tình báo tin rằng vấn đề không phải là nếu một cuộc tấn công sẽ xảy ra, mà là khi nào nó sẽ xảy ra.” Cố vấn an ninh quốc gia đã nói với tổng thống Clinton khi thiết lập trung tâm. “Chúng tôi nhận định rằng trong vòng vài năm tới bọn khủng bố sẽ có trong tay một số bệnh dịch tệ hại nhất cho con người. Danh sách này bao gồm bệnh than, bệnh tả, đậu mùa, sốt siêu vi hay xuất huyết chẳng hạn như khuẩn Ebola.

“Một vụ tấn công như vậy sẽ giết hàng triệu đàn ông, phụ nữ, và trẻ em vô tội ở Mỹ và khắp thế giới, nếu nó không được ngăn chặn.”

Có hai giả sử lớn trong cơ cấu điều hành của Chương trình Phản ứng nhanh: thứ nhất là các ban bộ của chính phủ sẽ hợp tác làm việc với nhau, và thứ hai, nếu có một cuộc tấn công xảy ra, nạn nhân mà nó nhắm vào là con người.

Tiếc thay.

“Tại sao lại cần đến 2 chiếc xe để đón tôi?” Gillette hỏi cô đại úy không quân ngồi cạnh anh ở ghế sau chiếc xe hơi Taurus (1) màu đen của bộ Quốc phòng, khi họ đang đi trên cầu Memorial để đến Lầu Năm Góc.

“Để đề phòng trường hợp một chiếc bị chết máy dọc đường. Trung tá hãy nhìn đống hổ lốn trên đường xem,” đại úy Heidi Ross trả lời. Bất chấp tình trạng hỗn loạn xung quanh họ, người phụ nữ nhỏ bé, trông khỏe khoắn và có giọng nói nhỏ nhẹ này vẫn có thái độ rất tập trung và chuyên nghiệp.

Giờ này, đáng ra sự lưu thông qua con sông Potomac phải rất dễ dàng. Nhưng hai chiếc xe đến đón Gillette đã phải bật chiếc đèn đỏ trên nóc để có thể lái qua đủ loại xe cộ bị chết máy, bị tai nạn và bỏ không nằm trên đường. Ít nhất một phần ba số xe trên đường phố đã ngừng chạy và giao thông xếp dài, tắc nghẽn. Dưới sông có thể thấy những mảnh vỡ từ một chiếc máy bay con vẫn còn đang cháy.

Với tiếng còi hụ chát chúa, họ lượn ra rìa đường (2), rồi lại lộn lại vào lằn đường chính, rồi thậm chí đi lên cả lằn cỏ phân ranh hai chiều lưu thông khi họ lái đến tiểu bang Virginia.

Mọi người đứng sững bên những chiếc xe của họ, không biết phải làm gì. Chiếc xe Taurus vượt qua một chiếc xe cứu thương đã ngừng chạy, một chiếc xe tải chở hàng thực phẩm cho siêu thị Safeway, rồi một chiếc xe buýt của ban nhạc “Gospel & Blues.” (3) Gillette nhìn thấy một người đàn ông đạp xe đạp, loại xe đạp chỉ có một líp tốc độ, đang chạy trên đường cao tốc, dưới ánh đèn cao áp, hình ảnh mà anh chỉ thấy ở các nước thế giới thứ ba. Một con chó săn Nga, chắc là bỏ nhà chạy rông, đang chạy giữa các xe.

“Chuyện này bắt đầu từ khi nào vậy?” anh kinh hãi hỏi.

“Sáu giờ tối hôm qua, chúng tôi nhận được những báo cáo đầu tiên. Xe cộ ngừng hoạt động ở Marseilles và Barcelona (4). Các thành phố ở Địa Trung Hải. Rồi máy bay rơi. Nhưng rồi Nga cũng bị như thế này, cho đến giờ tình trạng của bọn họ là tồi tệ nhất. Hệ thống tàu hỏa của họ cũng không hoạt động.

“Còn Mỹ thì sao?”

“Hiện giờ phần lớn mới chỉ có xảy ra ở vùng đông bắc. New York rồi Philly (5). Các đường cao tốc thực sự hỗn độn. Fort Myer không có cái gì di chuyển được. Một nửa số xe cảnh sát của bang Maryland đã ngừng chạy. Máy bay bốc cháy trên đường băng ở phi trường Kennedy (6) và Boston. Ban quản lý hàng không liên bang FAA (7) đã cho ngưng tất cả các chuyến bay khác. Còn tổng thống đã lên TV, kêu gọi tất cả mọi người ở nhà nếu không phải làm những nhiệm vụ thiết yếu. Các kênh truyền hình đang phát lời kêu gọi này từng giờ từng phút. Hy vọng là mọi người sẽ dừng chạy xe lăng quăng cho đến khi chúng ta tìm hiểu ra tại sao một số xe chạy được, còn số khác thì không.”

Chiếc xe Ford đi vòng qua chỗ tai nạn hai chiếc xe đâm vào nhau, tai nạn lần này chỉ là đầu xe sau đâm vào đuôi xe phía trước. Một chiếc xe tải nhẹ hiệu Chevy đâm vào xe bán tải giao bánh pizza. Gillette nhìn thấy phía trước những ánh lửa ở trên lằn đường hướng ngược lên phía bắc. Anh cố gắng tập trung suy nghĩ. Quang cảnh trung tâm thủ đô Washington và đường phố đã biến thành những cảnh rùng rợn như tranh của Hieronymus Bosch (8), với hàng xe cộ chồng chất vỡ nát. Những hàng lính đang đi bộ về phía cây cầu, bỏ lại chiếc xe chở họ giờ đã chết máy.

Một phần tâm trí anh vẫn đang nghĩ về khu phố Ingomar, về những nạn nhân cháy xém. Tạ ơn Chúa, vụ thảm họa đó đã không ảnh hưởng gì đến gia đình anh.

Lửa to quá, anh nghĩ. Như thể xăng cháy vậy.

Phải rồi!

“Xăng dầu. Đó là điểm chung với những vụ máy bay rơi bốn ngày trước đó,” anh nói, từ một người ngoài cuộc giờ đã thành một chuyên gia phân tích của trung tâm chỉ huy, từ người quan sát thành bác sĩ. Đó là phương pháp hành động mà bác sĩ Larch đã huấn luyện cho anh để đối phó với dịch bệnh. Bạn phải đi tìm nguồn gốc của nó, nơi nó bắt đầu lan ra.

Eleanor đã nói gì trong bữa tiệc tối qua nhỉ? \ất cả các máy bay bị rơi đều đã dừng nghỉ qua đêm ở Arập Xêut. Chị ấy cho rằng có ai đó đã phá hoại động cơ. Ừm, hoặc đúng hơn những chiếc máy bay phản lực đều đã được tiếp nhiên liệu ở đó.

Anh hỏi đại úy Ross, “Nguồn xăng cung cấp cho những nơi mà cô nói tới lúc nãy, có phải cũng đến từ Ảrập Xêut không?”

Cô đại úy nhìn với vẻ khâm phục khả năng liên hệ vấn đề của anh. “Phía Ảrập Xêut đang gửi các thông tin liên quan đến chuyện này khi tôi rời đi đón anh, thưa trung tá. Đó là tất cả những gì tôi biết.”

Gillette không thể không nhớ tới khuôn mặt của vị Imam già nua được phát đi phát lại suốt mấy ngày qua trong chương trình tin tức. Khuôn mặt nhiều nét khắc khổ và con mắt trắng đục, và lời dịch tiếng Anh chạy phía dưới màn hình TV: “Hãy để cho máy móc của chúng ngừng hoạt động. Từ trong đống đổ nát, những người sống sót sẽ dựng xây lên một thế giới tươi đẹp mới.”

Phải rồi, xăng dầu. Chắc chắn phải là nó. Gillette lại tự hỏi một lần nữa, Vậy làm thế nào bọn khủng bố có thể nhúng tay vào nguồn cung cấp nhiên liệu ở nhiều nơi như vậy? Hay xăng dầu bẩn được cung cấp qua cùng một hệ thống đường ống dẫn? hay từ một mỏ dầu?

“Chúng ta sắp đến Lầu Năm Góc rồi, thưa trung tá.”

Anh nhíu mày, bởi từ các cuộc họp, anh biết rằng nguồn cung cấp dầu khí từ lâu đã luôn là những mục tiêu tiềm tàng cho bọn phá hoại. Các công ty dầu khí luôn thường xuyên kiểm định dầu tìm tạp chất trước khi đưa đi bán.

Vậy tại sao họ không phát hiện ra vấn đề gì, trừ phi những người kiểm định là khủng bố, hoặc chất phá hoại kia là một chất mới mà họ không phát hiện được.

Có thể như vậy chăng?

Đúng là hoàn toàn có thể. Không phải các dịch bệnh mới bùng phát trong các bệnh viện, nơi có môi trường sạch sẽ luôn được khử trùng đó sao.

Anh hy vọng là mình nhầm. Lời cảnh báo của vị Imam kia sẽ trở nên chính xác tệ hại nếu quả thật dầu lửa có vấn đề. Sự nghiêm trọng của giả thuyết này làm anh choáng ngợp, nhưng anh tự nhủ anh vẫn chưa có đủ thông tin để đi tới kết luận.

Đại úy Ross trình thẻ căn cước để đi qua dãy hàng rào kiểm soát của đám lính, súng ống trên tay, đang trực chiến vòng quanh Lầu Năm Góc. Có nhiều xe hơn bình thường ở đây lúc này, bất chấp những vụ chết máy xe trên đường phố.

Gillette hỏi Ross: “Vì sao cơn dịch này bắt đầu xảy ra hàng giờ trước đó, mà đến giờ chúng tôi mới được gọi tới?”

Sau một thoáng do dự Ross trả lời. “Thực ra thì, toàn trung tâm đã cực kỳ bận rộn từ lúc bảy giờ tối. Nhưng những lệnh mà tôi nhận được ban đầu là không làm phiền đến trung tá. Chỉ gọi mọi người khác tới.”

“Nhưng tại sao lại …”

Anh sững lại, hiểu ra.

Nhiệm vụ của mình là các cuộc tấn công sinh học lên con người, không phải máy móc. Bọn họ đã gạt mình qua một bên.

Gillette cảm thấy máu nóng bốc lên đầu.

Lão Hauser khốn nạn, anh nghĩ, mường tượng tới kẻ đã ra lệnh kia. Hắn không hiểu mục đích của việc dùng người từ các phòng ban khác nhau là để cho chúng ta không bỏ sót điều gì.

“Chào mừng anh đến với chương trình quản lý hậu quả, bác sĩ thân mến.”

Trong đầu anh hiện lại ký ức của ngày đầu tiên làm việc ở Lầu Năm Góc, và cuộc gặp với trung tướng A. L. Hauser, người giữ chức trưởng ban (chief of staff) Trung tâm chỉ huy phản ứng nhanh. Hauser điều hành công việc hàng ngày của trung tâm và báo cáo trả lời tình hình cho một vị thứ trưởng bộ quốc phòng.

“Anh Gillette, chúng ta là một tổ chức liên hợp. Các cố vấn khác của trung tâm đến từ CIA, bộ An ninh nội địa, FBI, bộ Năng lượng và Y tế.” Viên tướng đẹp trai, tuổi gần năm mươi này đã lạnh lùng với Gillette từ lần gặp đầu tiên. Gillette sau đó biết thêm rằng Hauser có rất nhiều tham vọng và rất giỏi khoản bợ đỡ xu nịnh cấp trên. Hắn ta được trao thưởng huân chương ngân bội tinh (9) nhờ cầm súng khoảng chín mươi giây ở chiến trường Iraq, khi đi theo một đoàn tìm hiểu tình hình thực tế. Nhiều năm trời, hắn chỉ ngồi bàn giấy. Sự thực thì, chính Hauser là nhân vật của Lầu Năm Góc đã từng bị bẽ mặt trước đây khi Gillette chứng minh rằng vụ bệnh dịch ở Philippines không hề có liên quan đến khủng bố. Hắn đã mơ tưởng được thăng cấp, gắn thêm sao trên cầu vai, và sợ bị bẽ mặt xấu hổ còn hơn là các tay súng của kẻ thù. Hắn không bao giờ muốn làm việc cùng Gillette. Nhưng nếu gạt Gillette ra khỏi Trung tâm thì hắn sợ sẽ có lời dị nghị.

“Chúng ta không phải là một tổ chức dân chủ,” Hauser đã nói vậy trong ngày đầu tiên. “Anh cố vấn cho tôi, và thứ trưởng Ames, rồi anh ấy sẽ báo cáo lên cho bộ trưởng bộ Quốc phòng. Trong trường hợp có vụ tấn công hóa học hay sinh học, Trung tâm chỉ huy Phản ứng Nhanh sẽ có trách nhiệm đầu tầu cho mọi cuộc điều tra. Có quyền trên lực lượng hành pháp địa phương. Quyền truy nhập ưu tiên với các phòng thí nghiệm khắp đất nước. Trung tá hãy nhớ rằng, cách làm việc không theo khuôn phép của anh ở Philipines chỉ nhờ may mắn mà thành công. Ở đây anh sẽ tuân thủ mệnh lệnh của cấp trên. Tôi là người chịu trách nhiệm cho những hàng động anh làm.”

Giờ đây, đại úy Ross đang dẫn Gillette đi qua chiếc cửa xoay và hệ thống khám kim loại ở đại sảnh. Những bức ảnh treo dọc hành lang – tàu chiến bốc lửa ở Trân Châu cảng (Pearl Harbor), tòa tháp đôi của Trung tâm mậu dịch thế giới (World Trade Center) – khiến anh liên tưởng tới cảnh tượng vừa xảy ra ở đường Connecticut.

Đến khu Chỉ huy của nhóm phản ứng nhanh, Gillette thấy cả khu vực làm việc đang sôi động với công việc. Trong các phòng làm việc được ngăn nhỏ là đội ngũ nhân viên quân sự cố định – tình báo, điều phối và hậu cần, đang ngồi trước máy tính, trả lời điện thoại, nghiên cứu bản đồ hay các báo cáo từ các phòng ban.

Ross dẫn Gillette đến phòng hội nghị có tường bao kín ở phía góc. Cửa phòng đang đóng kín. Giọng cô trở nên rất nhẹ nhàng.

“Thưa trung tá, tôi biết anh là người cuối cùng chúng tôi đón tới đây, nhưng hàng xóm của anh có cho biết anh đã cứu nửa tá người thoát chết đêm nay.”

o0o

“Nó là cái gì? Một loại vi khuấn ăn dầu lửa à?” Thứ trưởng bộ Quốc phòng Dennis Ames bàng hoàng hỏi khi Gillette bước vào phòng.

“Chúa ơi,” giọng một ai đó ngồi khuất trong bóng tối.

Cuộc hội nghị trực tuyến truyền hình đang diễn ra trong nhóm chỉ huy và – hình ảnh đã được mã hóa – một khoa học gia mặc áo thí nghiệm ở căn cứ quân sự Fort Detrick, bang Maryland, nơi có những phòng thí nghiệm vũ khí chiến tranh hóa học và vi sinh loại hiện đại nhất cả nước. Ô, đó là Theresa Novak, Gillette ngạc nhiên nhận ra. Hiện lên trong óc anh là cảnh bãi biễn ở Philippines. Trăng tròn. Một chai rượu vang chỉ còn trơ vỏ. Một cuộc ăn mừng cơn dịch bệnh bị đẩy lùi. Một nụ hôn dài bị ngưng giữa chừng và chỉ được nhắc lại đúng một lần sau đó.

Theresa – giờ đã được phong lên hàm trung tá (quân đội), và có lẽ cũng là một cái gai trong mắt Hauser – đang nói. “Phía người Ảrập đã tìm thấy thứ vi khuẩn này trong một bể xăng máy bay ở Riyadh (thủ đô của Ảrập Xêut) hôm 28. Nhưng họ giấu diếm nguồn tin này. Họ không muốn gây ra hoảng loạn. Họ cho rằng họ đã kiểm soát được vấn đề. Các anh đang nhìn thấy đó là các con vi khuẩn kích cỡ một phần tỉ mét, loại sinh vật nhỏ nhất trên thế giới. Đây là một quần thể đã được phóng đại lên ba mươi nhăm ngàn lần.

Gillette ngồi xuống chiếc ghế trống cuối cùng bên chiếc bàn hội nghị hình chữ T, ở góc bàn cách xa thứ trưởng Ames nhất. Cạnh Ames là Hauser, đang nhướng mắt nhìn về phía Gillette. Đèn trong phòng đã được tắt. Những thành viên cố vấn khác của lực lượng phản ứng nhanh - mặc thường phục vì là đêm Chủ nhật, đang nhìn chằm chằm vào màn hình TV mỏng.

“Bố khỉ, có thứ thực thể bé nhỏ như thế mà vẫn sống được cơ à?” một đại diện của FDA tên là Bob Haskell hỏi. Anh này người gầy gò, đầu hói, một thời là lính thủy quân lục chiến.

Trung tá Novak nhún vai. “Chúng ta nên nhớ là trước khi Louis Pasteur phát hiện ra những loại vi khuẩn thông thường qua kính hiển vi, những sinh vật có kích cỡ nhỏ như vậy đã được cho là không thể tồn tại.”

Hình ảnh trên màn hình làm Gillette nhớ tới những quang cảnh trong một cuốn truyện tranh khoa học viễn tưởng. Những que dài trong mờ màu lục nhấp nhô – dạng hình ống như những thân cây bị bóc vỏ và xoắn tít vì mưa gió – đang vươn lên khỏi một bề mặt gồm hàng trăm bong bóng dính vào với nhau, trông giống như những túi trứng cá
“Tôi đã nghĩ rằng vi khuẩn ăn dầu là loại có ích cơ đấy. Chúng giúp dọn sạch các sự cố dầu loang,” Mark Wallach, một chuyên viên của FBI nói. Mark là một chuyên gia chống khủng bố, từng điều tra giải quyết các vụ đánh bom ở thành phố Oklahoma và Trung tâm thương mại thế giới. Anh là một cựu luật sư, dáng người trẻ khỏe mà chỉ nhìn qua Gillette đã thấy có thể tin được.

“Nhận định đó của anh từ trước tới giờ vẫn được cho là đúng,” Novak nói.

Gillette nghĩ, Mình chưa bao giờ thấy loại khuẩn nào như thế này cả.

Quần thể vi khuẩn run rẩy. Toàn thể cảnh lạ lùng kia chuyển sang hồng trong một thời gian, rồi chuyển sang mờ ảo. Một thứ chất như nước bọt đầy bong bóng đã thay thế màu lục trước đó. Rồi màn hình trở nên rõ nét trở lại với màu lục. Những ống que đã dài thêm. Bề mặt trải rộng hơn. Gillette nhận thấy có những hình thể như những viên kim cương màu đen nho nhỏ bám trên cái bề mặt kia. Lúc thì chúng tách rời nhau, lúc thì nhập lại.

“Loại khuẩn này phân chia còn nhanh hơn cả Ebola,” Theresa nói, với giọng trầm gợi cảm cố hữu. Gillette nhớ lại hình ảnh cô đang đeo găng và mặt nạ phẫu thuật, cúi xuống xem xét một người lính đang sốt cao trong khu cách ly của bệnh viện trong căn cứ quân sự. Anh nhớ hình ảnh cô đang nhìn vào kính hiển vi lúc 3 giờ sáng trong phòng thí nghiệm dã chiến. Anh nhớ hình ảnh của cô, chỉ trong một phần ngàn giây, tuyệt đẹp trong bộ đồ tắm hai mảnh bé xíu màu đen ở bể bơi của khu căn cứ sau khi vụ dịch đã bị dập tắt. Rồi tại một quán bar ở sân bay Manila, cô đã cầm tay anh và nói: “Anh đã đúng. Em rất mừng chúng ta đã không đi quá xa, anh Greg ạ. Sự cám dỗ tạo nên những kỷ niệm đẹp. Nhưng tự kiềm chế thì không kéo dài được.”



Chú thích

(1) Taurus: một loại xe hơi con bốn cửa được sản xuất bởi hãng Ford
(2) breakdown lane: phần rìa của đường, dành cho các xe đang chạy gặp trục trặc táp vào.
(3) thể loại nhạc nhà thờ và blue
(4) Marseilles: thành phố phía nam nước Pháp, bên bờ Địa Trung Hải
Barcelona: thành phố đông bắc nước Tây Ban Nha, bên bờ Địa Trung Hải.
(5) Philly: tên rút gọn trìu mến cho thành phố Philadelphia, thuộc bang Pennsylvania.
(6) sân bay quốc tế JFKennedy ở thành phố New York.
(7) Federal Aviation Administration: Ban quản lý hàng không liên bang Mỹ.
(8) Hieronymus Bosch: họa sĩ thời Phục hưng
(9) silver star: một loại huân chương trong quân đội.
(10) Cuộc chiến thành Kirrha năm 585 T.C.N. Nguồn nước bị ô nhiễm gây nên nạn dịch tả cho quân lính trong thành và họ không thể kháng cự khi người Hy Lạp tấn công và kết cục toàn bộ dân chúng thành Kirrha đã bị giết chết. Hellebore – cây lê lư (ở Tây Á và châu Âu), một loại cây cỏ hoa màu đen có độc tính, nhưng cũng được dùng để trị bệnh điên.
(11) Caffa, nay là thành phố Feodosiya ở Ukraine bên bờ Biển Đen.
(12) field emission scanner (hay scanning electron microscope): loại máy quét dùng dòng electron bắn lên vật mẫu trong môi trường chân không, có khả năng phóng đại hơn rất nhiều các kính hiển vi điện tử thông thường.
(13) micro-mét: 10^-6 m hay 10^-3 milimét
(14) “Mercator world map” là loại bản đồ thế giới thông dụng hình chữ nhật mà tỉ lệ (scale) thay đổi, nhỏ dần từ xích đạo lên hai địa cực. Các kinh tuyến, vĩ tuyến vì thế là các đường thẳng song song.
(15) Os tên gọi thân mật rút gọn của Osborne.
(16) ý nói về cơn bão Katrina đánh vào thành phố New Orleans bang Lousiana nước Mỹ năm 2005, gây ra một thảm họa cho môi trường và con người kéo dài nhiều tháng trời.


------------------------------------------------------------------------------------
Ngày thứ Hai đen tối

Tác giả: Scott Reiss


Chương IV (phần 2)
Dịch: lostinstranlation
Biên tập: Ooppss
Nguồn: www.tangthuvien.com






Lúc này, trên màn hình, cô đưa mắt nhìn sang trái, như thể nhìn về phía Gillette. Rồi cô nói tiếp, “Những anh bạn nhỏ bé này của chúng ta ở trong đĩa dầu đang ăn nghiến ngấu một cách điên cuồng dầu đã qua tinh chế. Phía Ảrập cho rằng những hình thể màu đen kia là chất thải của chúng, và thứ chất thải này đang phá hoại máy móc, đường ống dẫn và thay đổi tính năng của xăng dầu. Điều này đã từng xảy ra với một số vi khuẩn sống trong máy trợ tim và các đường ống công nghiệp. Bên Riyadh đã bắt đầu việc phân tích gen.”

Cô thở dài. “Nhưng hiện tại chúng ta chỉ đang mò mẫm suy đoán, chạy thí nghiệm và kiểm tra kết quả mà thôi. Tình hình này tệ đến mức độ nào? Đã lan rộng đến đâu?”

Sự căng thẳng bộc lộ rõ trong vẻ lặng yên của từng người ngồi trong phòng họp, liên tục quệt lông mày và uống nước. Cái tâm trạng ấy càng nặng nề hơn khi nhìn những hình vẽ về các cuộc chiến sinh học theo các mốc thời gian trên tường, ý tưởng của Ames nhằm động viên mọi người trong nhóm.

Bức “Những người Athens ở Delphi” mô tả những người lính Hy lạp cổ xưa đã chuyển dòng chảy sông Pleistrus vào thành phố Cirrha, nguồn nước mang theo rễ cây lê lư và đồ phế thải để đầu độc quân địch (10).

Bức tranh tiếp theo, quân Mông Cổ, miêu tả cuộc tấn công của người Mông Cổ vào thành phố Kaffa năm 1345. Quân Mông Cổ chất những xác người thối rữa vào máy ném đá để bắn qua tường thành. (11)

Những bức tranh khác là hình ảnh các nhà khoa học Nhật Bản chuẩn bị sô-cô-la mang mầm bệnh dịch hạch cho máy bay thả xuống Trung Quốc năm 1938, hay phòng thí nghiệm chiến tranh sinh học của Saddam Hussein ở Baghdad bị ném bom trong cuộc chiến vùng Vịnh lần thứ hai năm 2003.

Từ trước tới giờ, căn phòng này là nơi cả nhóm gặp nhau, nhâm nhi cà phê và ăn bánh ngọt để bàn định chiến lược. Chẳng hạn làm thế nào để đối phó một cuộc tấn công bằng bào tử bệnh than vào trụ sở Liên Hợp Quốc hay hệ thống tầu điện ngầm của thành phố New York qua hệ thống thông gió. Hay nếu quân khủng bố dùng một máy bay tư nhân để rải mầm dịch hạch ở Trung Đông, cần phải làm gì để đưa nạn nhân tới các bệnh viện và cách ly các thành phố?

Ngoài Theresa ra, mình chưa làm việc với bất cứ ai trong nhóm này trong một tình huống khẩn cấp thực sự cả, Gillette nghĩ.
“Bên Ảrập cho cái khối đen kia là chất thải của vi khuẩn à?” Thứ trưởng Ames hỏi sau khi Novak ngừng nói, có vẻ như ông này coi khả năng phân tích của dân Ảrập cũng chỉ như những người tiền sử (Neanderthal) đứng trước kính hiển vi, không biết phải đập vỡ hay quỳ lạy chúng.

Mọi con mắt đổ dồn về Ames. Ông này từ công ty giao dịch năng lượng Shelby ở bang Montana chuyển sang làm việc cho chính phủ, năm mươi tuổi, vai rộng, tính tình năng nổ, làm việc cày như trâu và cũng rất yêu gia đình. Còn về khâu quản lý, Gillette từ lâu đã cho rằng, ông ta chỉ tin vào việc xun xoe bợ đít cái tên Hauser kia để giải quyết sắp xếp công việc hàng ngày. Một nửa thời gian làm việc của ông ta là lo các vấn đề an ninh của các căn cứ quân sự đặt ở nước ngoài.

Trung tá Novak trả lời. “Vâng thưa ngài, bên Ả rập đã gửi người đi học về vi sinh tại đại học Havard trong suốt bốn mươi năm qua. Họ có những phòng thí nghiệm với trang thiết bị hiện đại nhất. Họ ở sát cạnh Iraq, nơi Saddam trong hàng chục năm đã nghiên cứu phát triển các loại vũ khí hóa học, sinh học để chống lại họ, và họ biết rõ về dầu mỏ. Vì lẽ đó tôi cho rằng giả thuyết của họ cần được đánh giá một cách nghiêm túc.”

Gillette mỉm cười. Anh có thể cảm thấy Ames đỏ mặt trong bóng tối.

“Nếu bọn Ảrập Xêút thông minh như thế sao họ không tìm thấy những con bọ này trong xăng dầu trước khi có năm vụ máy bay rơi?” Hauser lạnh lùng hỏi.

“Lý do cũng tương tự như việc những người quản lý chất lượng xăng dầu của công ty Mobil đã không nhìn thấy chúng mà thôi. Chúng rất nhỏ.” Cô trung tá đáp. “Hình ảnh chúng ta đang nhìn là cả một quần thể. Còn các vi khuẩn riêng lẻ thì đủ nhỏ để lọt qua bất cứ màng lọc nào. Không dễ gì nhận ra chúng dưới kính hiển vi điện tử bình thường. Phía Ảrập đã phải dùng máy quét điện trường của hãng Philips (12), phóng đại một trăm ngàn lần mới phát hiện được các cá thể riêng lẻ. Con bọ lớn nhất trong này cũng không quá 0.05 micro-mét (13), tức là chỉ một phần nghìn kích cỡ của một vi khuẩn thông thường. Ta không thể nhìn thấy chúng với dụng cụ thông thường cho tới khi một quần thể được thành lập. Ta không biết sự tồn tại của chúng cho đến khi mọi chuyện đã quá muộn. Mọi người hãy nhìn cái này xem.”
Lúc này hình ảnh như được chụp từ phía bên trái thay vì từ trên xuống.

“Chúng tôi nên phải nhìn cái gì vậy? Chẳng phải là cùng một quần thể đó sao,” Hauser sốt ruột hỏi.

Trung tá Novak nhỏ nhắn, mắt đen nhánh và làn da bánh mật. Cô có dáng của một diễn viên múa. Cô trả lời, “Đó là vấn đề tôi muốn nói, thưa trung tướng. Chúng nhìn giống hệt nhau, nhưng bức ảnh này là từ Mat-xcơva gửi tới cách đây một giờ.

“Ôi chà,” Violet Pell, một phụ nữ cao lớn với khuôn mặt xinh đẹp ngồi chéo phía đối diện với Gillette thốt lên. Cô này là một đại diện cho bộ Năng lượng. “Người Nga cũng mua dầu từ Ảrập Xêut à? Tôi đã tưởng là họ dùng dầu của nước họ sản xuất.”

“Chúng tôi cũng đang chờ câu trả lời cho chuyện này,” Ed Mallory, đại diện của CIA đáp. Anh chàng này ít nói, phong cách như giáo sư đại học, hay mút bút chì trong các buổi họp, và sau buổi họp thì ra ngoài khu nhà để hút thuốc. Giọng nói vì thế đã bắt đầu khò khè.

“Nếu người Nga không mua dầu của Ảrập, điều đó có nghĩa là con bọ này lây nhiễm từ hai nơi khác nhau.”

“Ít nhất là hai nơi,” Gillette nói, giọng không vui.

Một hình ảnh mới xuất hiện. Trung tá Novak như đang lơ lửng trên không phía cuối bàn. “Đây là mẫu lấy từ xăng trong xe Honda Accord đời năm 1999 của tôi, nó đã ngừng chạy khoảng 4 giờ chiều hôm nay.”

Một số tiếng than vang lên trong phòng.

Theresa nói. “Tôi đã chạy một số thí nghiệm trong lúc chúng ta chờ kết quả từ các nước gửi đến. Tôi cũng đã lấy các mẫu từ nhiều trạm xăng khác nhau.”

“Xin cám ơn trung tá về bài trình bày xuất sắc này,” Ames nói, và hình ảnh Novak trên màn hình được thay thế bởi một bản đồ thế giới (14), với những bóng đèn màu đỏ nhấp nháy đánh dấu những khu vực đã bị nhiễm dịch. Ở Mỹ, những chấm đỏ đánh dấu đi chéo vào đất liền từ bờ biển bang New Jersey và Delaware. Từ các nhà máy lọc dầu, Gillette nghĩ. Canada chỉ có một chấm đỏ nhấp nháy ở Montreal, nơi Gillette và Marisa đã từng hưởng tuần trăng mật mười lăm năm trước. Còn nước Pháp có hai chấm đỏ, nhìn như một khuôn mặt với hai con mắt.

Ames bình tĩnh nhìn quanh phòng họp. “Để giúp cho bác sĩ Gillette bắt kịp thông tin, chúng ta hãy coi lại những đề nghị lúc trước của chúng ta, những bước mà Nhà Trắng đã thông cáo. Anh Al?”

Hauser đọc lại, “Hiện giờ các sân bay đã bị đóng cửa, cũng như tất cả các trạm xăng. Quân đội sẽ được điều động tới bảo về các cơ sở khai thác, thu gom dầu khí, các đường ống dẫn. Các nước đồng minh của chúng ta cũng đang làm tương tự. Lực lượng cảnh sát hành pháp địa phương giúp đỡ bảo vệ cơ sở hạ tầng. Các trường học và công sở sẽ đóng cửa ngày mai. Lệnh giới nghiêm sẽ có hiệu lực cho tới khi vụ này kết thúc. Giao thông thương mại đường biển sẽ tạm ngưng. Thị trường tài chính chứng khoán Nữu Ước (Wall Street) sẽ nghỉ lễ. Kiểm tra tất cả các mặt của hệ thống cung cấp dầu cho cả nước, cho tới khi chúng ta biết được cái nào vẫn còn chưa bị nhiễm.”

Ames nói, “Chúng ta cần xác định rồi giải quyết. Tôi phải gọi điện đến Nhà Trắng lúc 5 giờ sáng. Mọi người có ý kiến gì không?”

Gillette nói. “Tôi cho rằng chúng ta nên đối phó vụ này như đối phó với một nạn dịch. Tìm nguồn gốc của nạn dịch và chặn nó trước khi nó lan rộng.”

Ed Mallory nói, “Nguồn gốc rõ ràng là từ một tổ chức lớn, có đủ khả năng tấn công hệ thống xăng dầu ở nhiều nơi cùng một lúc. Có đến cả triệu công nhân khoan, công nhân đường ống với kiểm định chất lượng người Hồi giáo ở Trung Đông. Khi có nhóm nào đó nhận trách nhiệm vụ này, chúng ta sẽ biết chúng là ai thôi.”

Mọi người đều gật đầu đồng tình.

Mallory nói tiếp, “Trong lúc này, chúng tôi đang nghe ngóng từ tất cả các nguồn khác nhau. Chúng tôi tiếp tục nhận diện những khuôn mặt trong cuốn băng của Al Jazeera, những kẻ trong cái hang động kia. Tôi được biết chúng ta đã ném bom khu đó, nhưng bọn họ thực sự là ai? Ai, hay nước nào đã tài trợ cho bọn chúng?"

Gillette vẫn kiên trì cảnh giác mọi người, “Tôi cho rằng chúng ta không nên vội giả thuyết ai đã gây ra vụ này. Chúng ta cần một ai đó trong ngành dầu khí đến đây để giải thích cho chúng ta hiểu hệ thống phân phối dầu mỏ hoạt động như thế nào.”

Ames có vẻ đồng tình. “Thực ra, một người bạn cũ của tôi sẽ có mặt ở đây ít phút nữa thôi để giúp giải thích về chuyện này.”

Các câu hỏi được đưa ra một cách dồn dập.

“Nguồn cung dầu khí bị nhiễm dịch bao nhiêu phần rồi?”

“Anh có thể tiêu diệt loại vi khuẩn này không?”

“Các cơ sở sản xuất thu gom sẽ phải đóng cửa trong bao lâu?”

Có tiếng gõ cửa. Đại úy Ross tiến vào.

“Tiến sĩ Osborne Preston đang ở bên ngoài, thưa ngài, từ Trung tâm nghiên cứu các vấn đề chiến lược và quốc tế.”

Cô báo cáo thêm, “Một chiếc xe của chúng tôi đã hết xăng. Chúng tôi có nên liều đổ xăng từ một trạm xăng nào đó không? Hay hút xăng ra từ một chiếc xe còn đang chạy?”

o0o

Ames giới thiệu vị khách mới tới, một người đàn ông trên sáu mươi tuổi, dáng vẻ khỏe mạnh, da cháy nắng, tóc nâu màu hạt dẻ cắt ngắn đều, mặt mũi sáng sủa gọn gàng, mắt xanh da trời, mặc áo sơ mi ủi phẳng phiu và cái áo khoác vải tuýt bóng. Tình hình có nghiêm trọng hay không, rõ ràng người đàn ông này đã dành thời gian chải chuốt trước khi tới đây. “Hoặc là tay mơ, hoặc là không lo lắng,” Gillette nghĩ.

Ames nói, “Os và tôi biết nhau hồi năm 2004 ở hội nghị khoa địa chính trị về vấn đề năng lượng. Tất cả các ban ngành tình báo đều tham gia vào mùa thu mỗi năm.” (15)

“Làm việc cùng anh là một vinh dự, anh Dennis ạ”

“Vinh dự đó là dành cho tôi. Hai đứa con trai tuyệt vời của anh thế nào rồi?”

Ngừng ngay mấy câu xã giao thối tha đi nào. Đi thẳng vào các câu hỏi đi, Gillette nghĩ.

“Tiến sĩ Preston đã có một sự nghiệp tư doanh rất lẫy lừng,” Ames nói với mọi người trên bàn họp. “Anh ấy từng là một kỹ sư địa chất dầu với công ty Texaco, rồi lên phó chủ tịch phụ trách an ninh năng lượng. Hiện tại anh nghiên cứu các chiến lược liên quan tới nguồn cung dầu khí. Anh liệu trước các vấn đề có thể xảy ra. Chẳng hạn như chuyện giảm nguồn cung cùng với các vụ khủng bố phá hoại đường ống ở Trung Đông.”

“Chuyện đó đã kéo giá xăng lên $4.90 một gallon,” người đàn ông mới tới bàn họp nói.

Ames tiếp lời, “Anh cũng đã rất chính xác với dự báo tình hình vụ bão đánh vào New Orleans (16) nữa, anh Os nhỉ.”

“Dennis à, tôi không sung sướng gì với dự đoán đó đâu. Thà rằng tôi đã sai còn hơn”

Gillette hình dung ra các phòng họp khác nhau đang sáng đèn ở khắp thủ đô lúc 2 giờ 28 sáng, tất nhiên, những công sở mà người ta có thể tới làm. Đàn ông, phụ nữ đang ngồi nghe điện thoại, ngồi trong phòng họp ở chỗ làm, tại Ủy ban thượng viện về năng lượng, tại Bộ An ninh nội địa, cố gắng tìm hiểu vấn đề.

Ames nói với Os Preston, “ Có vẻ như là một loại vi khuẩn đã lây nhiễm phá hỏng một phần của hệ thống cung cấp xăng dầu.”

“Một loại vi khuẩn?” Preston trông có vẻ bị sốc, nhưng nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. “Chúng tôi đã cho rằng đó chỉ là một hành động phá hoại, nhưng bởi một loại vi sinh? Loại nào vậy?"

“Chúng tôi không biết, và chúng tôi cũng chưa biết nó đã lây nhiễm rộng đến mức độ nào, liệu chúng có tự chui vào các mỏ dầu hay bị bơm vào một số bể chứa, hay đường ống.”

Preston giơ một tay lên với vẻ kiên quyết.

“Loại bọ này không thể ở dưới lòng đất được. Chỉ có thể cho rằng chúng đã được bỏ vào sau quá trình tinh luyện, trong giai đoạn phân phối.”

“Vì sao ông lại chắc như vậy?” Gillette hỏi.

Hauser liếc nhìn Ames như thể dò ý xem câu hỏi vừa rồi của Gillette có mếch lòng người khách không. Preston không hề bận lòng. “Có vài lý do,” ông nói với Gillette. “Đầu tiên chính là mỏ dầu. Phần lớn mọi người tưởng tượng một mỏ dầu như một cái hồ dưới lòng đất. Điều đó không đúng. Dầu nằm trong các hang hốc lỗ rỗng của đất đá, chia thành các lớp trải dài một diện tích rất rộng. Các mũi khoan mở các lớp đá ra và dầu chảy vào các giếng khoan do chênh lệch áp suất. Các giếng khoan như các ống hút, hút dầu lên mặt đất. Do đó bất cứ loại vi khuẩn nào muốn tồn tại dưới đó trước tiên phải đủ nhỏ để có thể di chuyển qua hệ thống các lỗ rỗng trong đá.”

“0.05 micron có đủ nhỏ không?” Gillette hỏi.

Preston cau mày. “Thế thì nhỏ thật đấy”

“Liệu một vi khuẩn với kích cỡ như thế có di chuyển qua đất đá trong mỏ dầu được không?”

Preston xếp mấy ngón tay đầy đặn của mình. “Như thế này, một số vi khuẩn có thể sống dưới đó, nhưng quá trình lọc dầu sẽ giết chết chúng. Không có vi khuẩn nào tồn tại được."

“Quá trình lọc dầu,” Ames nhắc lại.

“Ừ, có lẽ các anh chị cũng biết quá trình đấy là như thế nào …”

“Anh cứ giải thích đi, cho những ai không biết.”

Tôi không biết, Gillette nghĩ, lộ rõ vẻ tò mò.

“Ừm, Dennis à, dầu thô, như khi mới khai thác ra khỏi lòng đất, thì chẳng dùng làm gì được. Anh phải phân tách chúng thành các loại hydrocarbon khác nhau để thành các sản phẩm hoàn chỉnh. Xăng xe, xăng máy bay, dầu đun và nhớt. Các sản phẩm nhựa plastic. Bố khỉ, toàn những thứ mà chúng ta không thể sống thiếu được.”

“Vậy quá trình lọc hóa dầu làm như thế nào?” Violet Pell hỏi.

“Nguyên lý giống như một hệ thống lọc thôi, thưa cô. Như là tự làm rượu lậu vậy. Anh chị cứ tưởng tượng một nhà máy lọc dầu, một dãy các cột chưng cất cao 50, 60 mét nối bởi các đường ống phía dưới. Các ống thép tròn xếp chồng lên nhau.”

Preston vừa nói vừa quơu tay diễn tả, như đang vẽ minh họa những cột tháp, đường ống.

“Dầu thô được bơm vào các cột chưng cất. Rồi anh đun nó đến lúc hóa hơi. Tôi đang nói đến nhiệt độ cao đến 500-600 độ C, tùy vào sản phẩm cuối mà anh muốn sản xuất. Tùy vào nhiệt độ, hơi dầu bốc lên theo ống dẫn và tùy vào mạch hydrocarbon ngắn dài thế nào mà ngưng tụ lại khi tới một độ cao nhất định. Ở 204 độ C anh tách được xăng, 325 độ C anh được xăng máy bay, 370 độ là nhớt, và 540 độ để lấy dầu đốt.”

“Đó là tất cả chưa?” Hauser tay ghi chép, miệng hỏi.

“Đó chỉ là 40 phần trăm của lượng dầu thô ban đầu mà thôi. Phần còn lại được đi qua quá trình chế biến hóa học, phản ứng hoá học sẽ bẻ các hydrocarbon mạch dài thành mạch ngắn, hay gắn mấy cái mạch ngắn giống nhau thành mạch dài, rồi sắp xếp lại mạch. Tôi có thể kể nữa, nhưng chốt lại là gì, không có vi khuẩn sinh vật nào có thể chịu được các quá trình dùng nhiệt và hóa học để tinh luyện này.”

“Vậy sự lây nhiễm chỉ là trong hệ thống phân phối dầu mà thôi,” Ames kết luận, nói ra những suy nghĩ của mình. “Các thùng chứa, đường ống. Các con vi khuẩn kia đã được cho vào sau quá trình tinh luyện.”

“Hãy cảm ơn chúa vì điều đó,” Preston nói. “Nếu có một loại bọ phá hủy xăng dầu có thể di chuyển qua các mỏ, đồng thời chịu được quá trình tinh luyện dầu, thì, tùy vào mức độ lây lan của nó, anh có lẽ đang phải đối mặt với những điều mà thằng điên trên TV đã dự đoán đấy.”

“Dự đoán điều gì thế, anh Os?”

“Chừng năm mươi ngày là cùng, đến giữa tháng 12 này, thế giới chúng ta đang sống sẽ sụp đổ.”


Chú thích

(1) Taurus: một loại xe hơi con bốn cửa sản xuất bởi hãng Ford
(2) breakdown lane: phần rìa của đường, dành cho các xe đang chạy gặp trục trặc táp vào.
(3) thể loại nhạc nhà thờ và blue
(4) Marseilles: thành phố phía nam nước Pháp, bên bờ Địa Trung Hải
Barcelona: thành phố đông bắc nước Tây Ban Nha, bên bờ Địa Trung Hải.
(5) Philly: tên rút gọn trìu mến cho thành phố Philadelphia, thuộc bang Pennsylvania.
(6) sân bay quốc tế JFKennedy ở thành phố New York.
(7) Federal Aviation Administration: Ban quản lý hàng không liên bang Mỹ.
(8) Hieronymus Bosch: họa sĩ thời Phục hưng
(9) silver star: một loại huân chương trong quân đội.
(10) Cuộc chiến thành Kirrha năm 585 T.C.N. Nguồn nước bị ô nhiễm gây nên nạn dịch tả cho quân lính trong thành và họ không thể kháng cự khi người Hy Lạp tấn công và kết cục toàn bộ dân chúng thành Kirrha đã bị giết chết. Hellebore – cây lê lư (ở Tây Á và châu Âu), một loại cây cỏ hoa màu đen có độc tính, nhưng cũng được dùng để trị bệnh điên.
(11) Caffa, nay là thành phố Feodosiya ở Ukraine bên bờ Biển Đen.
(12) field emission scanner (hay scanning electron microscope): loại máy quét dùng dòng electron bắn lên vật mẫu trong môi trường chân không, có khả năng phóng đại hơn rất nhiều các kính hiển vi điện tử thông thường.
(13) micro-mét: 10^-6 m hay 10^-3 milimét
(14) “Mercator world map” là loại bản đồ thế giới thông dụng hình chữ nhật mà tỉ lệ (scale) thay đổi, nhỏ dần từ xích đạo lên hai địa cực. Các kinh tuyến, vĩ tuyến vì thế là các đường thẳng song song.
(15) Os tên gọi thân mật rút gọn của Osborne.
(16) ý nói về cơn bão Katrina đánh vào thành phố New Orleans bang Lousiana nước Mỹ năm 2005, gây ra một thảm họa cho môi trường và con người kéo dài nhiều tháng trời.



----------------------------------------------------------------------------
Ngày thứ Hai đen tối

Tác giả: Scott Reiss


Chương V (phần 1)
Dịch: Nhóm dịch TA
Biên dịch/Biên tập: Ooppss
Nguồn: www.tangthuvien.com


NĂM
Ngày ba mươi mốt tháng Mười. Buổi sáng sớm. Ngày thứ ba sau khi cơn dịch bùng nổ.



Xuất hiện ở Washington D.C với cái tên Clayton Cox, hắn đang lái chiếc xe mô tô hiệu BMW dọc theo phố New Mexico, góc phần tư phía tây bắc của thành phố. Vào lúc hai giờ năm mươi mốt phút sáng, hắn đang trên đường đi thi hành nhiệm vụ - giết toàn bộ một gia đình. Nếu tin tức của người cha đỡ đầu cung cấp cho hắn đúng như những lần trước, gia đình này có tất cả 5 người gồm cả bố lẫn mẹ, nếu ông bố có mặt tại nhà như mọi khi và ba đứa con; đứa lớn nhất mười bảy, đứa kế mười lăm, và đứa nhỏ nhất bốn tuổi.

Chiếc xe mô tô chạy êm ru trên đường, tiếng máy xe nhỏ sẽ không thu hút sự chú ý của người xung quanh và nó chạy tốn rất ít xăng. Những chiếc xe hơi chết máy nằm trên đường đã biến con đường thành giống như một đoạn đường vượt chướng ngại vật. Trong hai chiếc túi bên hông đàng sau xe của hắn có bản đồ đường phố của Washington D.C., những ‘chứng cớ’ giả tạo để bỏ lại sau khi hoàn thành nhiệm vụ, một con dao kiểu thủy quân lục chiến lưỡi bằng thép không rỉ dài khoảng mười lăm centimét, một hộp dụng cụ chuyên nghiệp mở khoá của dân ăn trộm chuyên nghiệp và một gói Chuckles, thứ thức ăn vặt mà Clayton thích nhất. Hắn mặc một cái áo gió màu xanh đậm và một cái quần jean hiệu Gap, và lận sau lưng một khẩu súng ngắn hiệu Glock 17 nạp sẵn băng đạn mười viên.

Cha đỡ đầu của hắn luôn nói rằng "Cơ hội vàng chỉ xảy ra cho những người có sự chuẩn bị chu đáo." Đó là lý do vì sao cha đỡ đầu của hắn đã lệnh cho hắn mua sẵn xăng, đổ đầy vài thùng phuy 200 lít chứa trong một cái ga-ra đã được thuê mướn sẵn.

Hắn vui như mở cờ trong bụng trước tình trạng hỗn loạn chung quanh, tim đập thình thịch vì sung sướng trước những cảnh tàn phá bên đường; những chiếc xe kéo bị hỏng, cảnh sát thì lóng ngóng và bối rối không biết làm gì với tình trạng hỗn loạn, cư dân thành phố thì vẫn còn choáng váng sững sờ đi lang thang trên đường phố bất chấp những lệnh giới nghiêm được ban ra và thi hành không có hiệu quả. Tiếng máy đều đều của chiếc BMW, động cơ xe đang hoạt động một cách trơn tru như một đòn tấn công lên các giác quan của kẻ thù, không khác gì nhiệm vụ mà Clayton phải làm đêm nay.

Lái xe ngang qua trường đại học American, hắn thấy nhiều sinh viên lang thang ở ngoài khuôn viên của trường, đi từng người riêng lẻ, hay thành từng nhóm từng cặp trên những khu phố ngập đầy lá vàng. Bọn họ đang chứng kiến lịch sử, nhưng lại không biết rằng người đàn ông đội mũ bảo hộ an toàn đang lái chiếc xe mô tô lại chính là tác nhân làm nên lịch sử.

Clayton lái xe vòng vòng quanh thành phố mấy tiếng đồng hồ. Hắn vừa lái vừa quan sát thu thập thông tin hiện trường để sau này báo cáo lại dùng loại điện thọai đã được mã hóa và có khả năng làm xáo trộn tín hiệu (1). Hắn nhìn thấy nhiều lớp cảnh sát và lính tráng đóng xung quanh Capitol và Nhà Trắng. Đèn đã sáng lên ở những tòa sứ quán trên đại lộ Massachusetts. Những tín đồ Hồi giáo ngoan đạo vẫn đi bộ đến để cầu nguyện ở thánh đường Hồi giáo màu trắng thật lớn trên phố Rock Creek Parkway. Cha đỡ đầu và hắn biết rằng thế giới Hồi giáo sẽ bị quy trách nhiệm là phần tử gây ra cuộc tấn công đêm nay.

Hắn cũng ghé ngang và dừng mô tô lại xem đống đổ nát gây ra bởi chiếc phi cơ rớt ở phố Ingomar Place. Những đám lửa đã được dập tắt. Những nhân viên cảnh sát phải làm việc tối nay, đứng ở đàng sau những dải băng màu vàng dán bao quanh hiện trường hòng ngăn chận mọi người đi vào. Nhưng việc làm này chẳng khác nào việc anh cố gắng ngăn chận một tội ác sau khi nó đã xảy ra. Con đường nồng nặc mùi xăng dầu, mùi than và phảng phất một mùi quen thuộc của da thịt bị đốt cháy. Hắn quan sát những nhân viên cứu cấp mang đi một cái xác được phủ chăn kín từ một sân cỏ.

Lái xe đến gần khu Chevy Chase, ranh giới của tiểu bang Maryland, Clayton quẹo vào một khu phố rậm bóng cây nơi những con đường trồng đầy cây sồi dọc hai bên đường được đặt tên theo những vị tổng thống: phố Roosevelt, phố Truman, phố Coolidge, phố Reagan. Những căn nhà trong khu phố đã tắt đèn tối om. Những chiếc xe đậu trên lối vào nhà, đa số là xe ít khi được xử dụng. Đâu đây vang lên tiếng nhạc đồng quê (Country Music). Ngôi nhà hắn tìm kiếm, nơi hắn đã thăm dò vào hai đêm trước, tọa lạc trên một khu đất có nhiều cây cối. Đó là một căn nhà xây theo kiểu nhà một tầng có hai mức sàn trên dưới(2) với vách ngoài bằng gỗ tuyết tùng, căn nhà có một cái sàn gỗ bên ngoài nhà được bao lưới xung quanh và một tượng ‘chú Sam’ (3) bằng gỗ dễ thương – một món đồ chơi dùng sức gió để chuyển động – gắn ở bên trên thùng thư. Mặt trước của căn nhà khuất sau những bụi cây.

Trên thùng thư ghi tên, gia đình Niles, Bill, Mary, Mike, Stevie và Alice.
Clayton được biết, Bill Niles là trưởng phòng lực lượng đặc biệt của cục điều tra liên bang chuyên theo dõi những phần tử cực đoan Hồi giáo trên nước Mỹ. Thỉnh thoảng ông ta xuất hiện trên truyền hình để trả lời một số phỏng vấn cho những chương trình truyền hình như Chào buổi sáng nước Mỹ, chương trình trực tuyến Lary King, chương trình tin tức của hãng Fox, của CNN.

Dễ như ăn bánh. Đó không phải là một câu nói người Mỹ thường nói hay sao?

Clayton đậu chiếc xe BMW cách ba đó hai khu phố, phía sau trường tiểu học Thurgood Marshall. Hắn trèo băng ngang qua nhiều sân sau của nhiều nhà xung quanh cho đến khi hắn đứng ở ranh giới trong khu đất của gia đình ông Niles, với những giác quan đã được huấn luyện kỹ càng, hắn hoà nhập vào thực cảnh khi đang lắng nghe động tĩnh xung quanh bên dưới những tàng cây. Hắn nghe một tiếng gió nhẹ thổi phớt qua. Hắn nghe một con sóc đang chạy. Hắn không nghe thấy tiếng của ai trên đường, không có tiếng xe chạy.

Đêm nay không có cảnh sát đi tuần như thường lệ, chỉ có những người làm công tác ứng đối đột xuất. Và tất cả những chiếc xe đang chạy chẳng mấy chốc sẽ cần phải đổ thêm xăng.

Nghĩa là một đám xe mới chẳng mấy chốc sẽ bị chết máy.


Đi đến gần căn nhà, Clayton cẩn thận để lại một phần dấu vết của gót giầy, từ đôi giầy hiệu thể thao Reebok số mười một, trên một chỗ có đất xốp. Cỡ giày thông thường của hắn hay đi là số chín.

Hắn cũng để lại vết tích của một phần bàn chân trên đất ở phía sau một bụi hoa hồng.

Hắn mang bao tay bằng cao su trắng.

Hắn biết trong nhà không có chó, và cũng không có hệ thống báo động.

Hắn đột nhập vào trong nhà chỉ trong vòng vài giây, thông qua cửa sổ phòng đang mở của bé gái nhỏ nhất.

Thật là lũ cha mẹ ngu xuẩn. Một nhân viên của cục điều tra liên bang lẽ ra phải thông minh hơn chứ. Họ khóa cửa nhà, nhưng lại để cửa sổ mở toang.

Ngửi được mùi phấn thoa trẻ em, Clayton đến đứng cạnh một đứa bé bốn tuổi đang ngủ. Hắn nhìn qua tứ chi trong tư thế buông lỏng. Cái áo ngủ bằng vải mỏng. Hình ảnh quảng cáo dán tường của băng nhạc "Wiggles", bốn thanh niên người Anh chuyên múa hát nhạc trẻ em, treo ở phía trên đầu giường. Một quyển bách khoa toàn thư về thú vật để ở trên một cái bàn học của trẻ em, phía trước một cái ghế bằng nhựa có hình của Elmo, nhân vật trong chương trình truyền hình của nhi đồng "Sesame street."

Một phát súng hãm thanh bắn vào ngay vào cái đầu bé nhỏ tóc vàng.


Trong căn phòng kế, hắn nhận ra đứa bé 17 tuổi, rõ ràng là một ủng hộ viên cuồng nhiệt của Nats, vì khắp nơi đều có hình quảng cáo dán đầy trên tường, và có rất nhiều đồ vật lưu niệm của môn thể thao bóng chày. Clayton nhìn thấy một cái găng tay chơi bóng chày của Wilson Fielder, một cái áo đồng phục của đội bóng chày trường phổ thông trung học – “Những kẻ nổi loạn”(4) – nằm nhăn nhúm ở bên trên cái tivi.

Cái cơ thể nạn nhân giật xốc mạnh lên khi hắn bắn. Cậu bé trai co giật nhẹ nhẹ khoảng chừng nửa phút thì im hẳn. Máu bắn tung toé vào gối, nhưng Clayton đứng ở một khoảng cách vừa đủ xa để máu không bắn vào quần áo.

Hành lang bên ngoài phòng ngủ được trải thảm cho nên đi lại dễ dàng. Chỉ đi ba bước hắn đã lên được tầng sàn kế. Nhưng giường ngủ trong phòng này trống không. Mền được lật ra.

Cái khăn trải giường vẫn ấm hơi người.

Clayton đứng lại, nghe ngóng. Hắn cảm thấy hồi hộp, nhịp tim tăng lên. Không có thấy tiếng động gì trong nhà, không có cả tiếng thở, tiếng bước chân, tiếng giật cầu tiêu hay tiếng nước chảy.

Chẳng lẽ thằng bé đã nghe thấy khi mình lẻn vào đây? Hay nó đã thấy mình ngoài hành lang? Có thể nào nó còn yên lặng hơn cả mình?

Cánh cửa sổ được hé mở chưa đến hai mươi phân. Hắn không nghĩ rằng ai đó có thể chui qua kẽ hở nhỏ đến như vậy.

Clayton liếc qua cửa sổ nhìn ra bãi cỏ phía sau nhà, nhìn thấy bàn ghế trong vườn dưới ánh trăng. Có một đài phun nước bằng đá. Phía rìa của mảnh đất là một hàng cây sồi. Không thấy bóng dáng thằng nhóc đâu.

Hay tủ quần áo?

Clayton lướt nhẹ lên phía trước, cầm khẩu Glock 17 trong tay trái. Trên cửa tủ có dán một áp phích quảng cáo về Trung tâm Kennedy về đêm với ánh đèn sáng rực.

Hắn kéo mở cánh cửa tủ ra.

Cũng không có thằng nhóc trong đó.

Clayton quỳ xuống cạnh giường nhưng hắn ko thể nhìn phía dưới giường. Cái mền trải giường chắn mất tầm nhìn của hắn.

Lúc hắn với tay gạt cái tua mền sang một bên, hắn bỗng nghe thấy tiếng giật cầu tiêu từ phía cuối hành lang vọng lại.

À, nó đây rồi.

Cùng lúc hắn đứng dậy, hắn nghe thấy âm thanh nhẹ nhàng của bàn chân trần từ ngoài hành lang. Clayton ẩn người vào một góc tối bên cạnh cái hộp đàn viôlôngxen của cậu bé dựng đứng bên cạnh một cái giá nhạc bằng sắt với nhiều bản nhạc bên trên.

Một đứa bé tóc bù xù lủi vào trong phòng như một kẻ mộng du, chỉ mặc mỗi quần lót. Nó nằm lăn ra giường, không hề nhìn thấy Clayton.

Một phát súng ngay đầu.

Clayton không thoải mái lắm với việc giết trẻ con, nhưng lại nhớ tới những lời mà ông cụ năm đời của hắn đã từng viết mà hắn đọc đi đọc lại từ quyển tập nhàu nát luôn mang theo trong những chuyến đi.

"Sự đau khổ của trừng phạt chính là lòng nhẫn tâm."

Tổ tiên của hắn rõ ràng là đã từng phải đối diện với những nhiệm vụ khó chịu kiểu này, từ bao nhiêu cuộc chiến tranh đã qua.

Phòng ngủ chính nằm ở cuối của hành lang dài. Khi hắn bước vào thì chỉ thấy một người nằm trên cái giường rộng lớn. Nửa bên kia giường vẫn còn ngăn nắp.

Người chồng chắc đã ra ngoài. Hắn ta có lẽ đã được gọi trở lại Sở điều tra liên bang trong lúc khẩn cấp tối nay.

Không thành vấn đề, Clayton Cox tự nhủ với mình trong lúc người đàn bà làu bàu trong giấc ngủ. Cô ta chuẩn bị mở ra.

Một phát súng ngay đầu.

Bây giờ tới phần kế tiếp, phần đáng sợ hơn, nhưng lại là phần đặc biệt quan trọng mà người cha đỡ đầu của hắn đã nói.

Rút con dao găm K-bar ra.

Hắn bắt đầu từ người vợ. Hắn chỉ dùng mỗi tay trái. Hắn lóc thịt cô ta ra.

Sau đó đến mấy đứa bé, phần này khó hơn. Làm nhanh lên, hắn tự nói với mình.

Sau cùng hắn lấy từ trong túi ny lông ra một ống nghiệm thủy tinh nhỏ, mở nút chặn ra rồi rắc manh mối chính của vụ án đêm nay lên lưng đứa bé bốn tuổi. Đó chỉ là vài giọt tinh dịch, một trò đồi trụy của hắn, mà Clayton thủ dâm ra được khi hắn tới viếng một tiệm chiếu phim khiêu dâm trên đại lộ Georgia trưa nay.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, hắn để lại tờ giấy nhắn tin lên bàn ở nhà bếp mà hắn tự mình viết bằng tay trái. Cha đỡ đầu của hắn đã đọc cho hắn biết chính xác những gì phải viết.

Lời trích dẫn sẽ khiến người dân Mỹ nổi điên, đặc biệt khi bọn họ tìm ra được xuất xứ của nó.

"Kẻ nào tử tế với đồng loại thì Thượng Đế sẽ tử tế với hắn."

"Như Napoleon từng nói, việc lường gạt còn dễ làm hơn là làm sáng tỏ việc lường gạt," người cha đỡ đầu của hắn hay nói vậy. "Không có gì khiến đám dân Mỹ nổi giận hơn là nạn nhân vô tội. Và khi bọn chúng nổi giận, bọn chúng sẽ phạm sai lầm."

Đến 4:13, hắn đạp máy chiếc BMW, lái dọc theo phố Reno trở về hướng phố Macomb và căn nhà thuê nhỏ của hắn. Đường xá vắng tanh. Nhà nhà chìm trong bóng tối. Ánh trăng lu mờ. Hắn cần phải báo cáo đã trở về vào lúc 5:30.

Cho tới giờ mọi thứ đã xảy ra một cách hoàn hảo, hắn vừa nghĩ vừa thư giãn, nhưng đúng lúc đó thì hắn thấy ánh đèn sáng quắc rọi vào kiếng chiếu hậu, và đây có lẽ là chiếc xe cảnh sát duy nhất còn lại đang tuần tra trong vùng tây bắc Washington, đang theo ngay sau hắn.

Hắn chậm xe lại. Xe cảnh sát cũng vậy. Hắn quẹo cua ở một góc đường

Xe cảnh sát cũng vậy và bắt đầu bám sát hắn.

o0o

Cùng lúc đó, tại Ngũ Giác Đài, không có bất kỳ đèn báo đỏ mới nào hiện lên trên bản đồ theo dõi các vụ việc đang xảy ra. Không có thêm vụ máy bay nào bị rơi trên toàn thế giới.

Chưa một ai trong Biệt đội phản ứng nhanh về nhà cả, và kể cả Gillete - đang ăn bánh ngọt chiên dầu và nhấm nháp cà phê - vẫn còn đang ở trong phòng hội nghị.

Tiến sĩ Preston nói với cả đội, "Rõ ràng chúng ta đang nhìn thấy sự khủng hoảng trầm trọng về giá cả dầu thô. Sự biến động này thì hạn chế, có tính đột biến và ngắn hạn. Nhưng chiến lược của chúng ta đã lường tới tình huống thiếu hụt dầu trầm trọng và bất ngờ; thí dụ như việc đảo chính của các phần tử tôn giáo bảo thủ ở Saudi Arabia; tình huống cấm vận, hay có nhiều cơn bão từ Đại Tây Dương xảy ra liên tiếp. Các nước khác sẽ bổ sung lượng dầu bị thiếu hụt cho chúng ta. Số lượng dầu sản xuất bị giảm đi là tình huống xấu, nhưng có thể khắc phục được.”

Thứ trưởng đã đi dự hội nghị ở Nhà Trắng. Tướng Hauser sẽ điều khiển cuộc họp.

“Trong lúc này”, Preston nói, "một khi các anh tìm ra cách để diệt con vi khuẩn, nan đề đó là phải khử trùng các bể chứa, hệ thống ống dẫn và các con tàu chuyên chở chúng.”

Đúng rồi, toàn bộ chuyện mà chúng ta phải làm là giết chết nó, Gillete nghĩ, ngạc nhiên với sự giả định là công việc sẻ dễ dàng như vậy.

Preston vẫn giữ nguyên sự lạc quan không mệt mỏi mặc dù đã khuya, ông ta là một người luôn cho rằng kỹ-thuật-luôn-chiến-thắng. Nhưng khi Gillete chưa có chứng cớ rõ ràng, anh sẽ không mù quáng chấp nhận sự bảo đảm cho rằng vi khuẩn không có - mà trong trường hợp tệ hại nhất - là ở trong lòng đất, và không đủ sức để sống sót qua quá trình tinh luyện dầu thô.

Vi khuẩn mầm bệnh luôn tìm ra cách vượt qua các biện pháp phòng ngừa.

“Có bao nhiêu mỏ dầu trên thế giới?” Gillette hỏi, nhận ra đại tá Novak xuất hiện trở lại trên màn hình. Cô ấy trông tươi tắn và tỉnh táo.

“Hơn 100,000 mỏ dầu, bao gồm cả những mỏ nhỏ. Kiểm tra toàn bộ hạ tầng kiến trúc của các mỏ là một công việc rất lớn”. Preston nói. Chi phí để khử trùng toàn bộ sẽ dẫn đến phá sản vài ngân hàng mất. Nhiệt. Hóa chất. Hay bất cứ thứ gì chúng ta có thể tìm ra để tiêu hủy những vi khuẩn này, làm từng thùng từng thùng dầu một.

Gillete nói. ”Và với giả thiết là những vi khuẩn này có thể bị hủy diệt”

“Mọi thứ đều có thể bị tiêu diệt” Preston đốp chát.

“Phải, nhưng..” Theresa lên tiếng ở trên màn hình trực tuyến, khiến cho vài người xoay đầu lại nhìn cô. ”Chúng ta cũng muốn giữ lại nạn nhân - tức dầu thô - ở điều kiện còn có thể xử dụng được."

Gillete nghĩ, chúng ta đã cố gắng loại trừ bệnh AIDS hơn 20 năm mà có thành công đâu.


------------------------------------------------------------------------------------
Ngày thứ Hai đen tối

Tác giả: Scott Reiss


Chương V (phần 2)
Dịch: Nhóm dịch TA
Biên dịch/Biên tập: Ooppss
Nguồn: www.tangthuvien.com




Hauser kết thúc cuộc họp, và phân nhiệm vụ.

"Bộ năng lượng," Hauser nói với Violet Pell một cách phấn khởi, giống như cơn tai hoạ chắc chắn có thể được tránh khỏi, "chúng tôi cần họ tung ra lượng dầu thô dự trữ cung cấp cho toàn nước. Chúng tôi muốn một có một hệ thống kiểm định nhanh và tin tưởng được cho các kho dự trữ, các đường ống dẫn và các trạm lọc dầu. Các khu vực bị nhiễm độc cần phải được cách ly. Nơi không bị nhiễm độc cần phải được canh phòng. Các anh sẽ được bổ nhiệm làm việc chung với các công ty dầu hỏa về việc này và với Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm FDA."

Violet gật đầu. "Người của tôi đang tiến hành việc này."

Gillette nghĩ, tới khi nghỉ giải lao, mình cần phải gọi về nhà. Mọi người cần phải trữ thêm thực phẩm trong nhà.

"Đại tá Novak," Hauser nói, "Cái con bọ quỷ này là thứ gì và nó từ đâu tới vậy? Nó có độc hại cho con người hay không? Nó từ tự nhiên à? Làm cách nào để chúng ta giết nó? Có ai có kinh nghiệm hay biết tí gì về nó hay không? Các trường đại học? Bộ quốc phòng? Có thể nào cái thử quỷ này đến từ ngoài trái đất không? Detrick sẽ được đặt làm trung tâm phối hợp toàn quốc. Tôi muốn các thiết bị quân sự được thử nghiệm triệt để. Máy bay, xe cộ, ngay cả lò sưởi. Chúng ta cần nhanh chóng tìm ra những máy móc nào còn có thể sử dụng được."

"Chúng ta có thể đang đánh giá thấp mối nguy hiểm." Gillette nói. "Chúng ta không biết chắc là nó chưa có lan ra ngoài."

"Ồ, tôi tưởng bác sĩ Preston đã loại bỏ khả năng đó rồi." Hauser nói.

Nếu xe không chạy, con người không thể đến chỗ làm. Nếu dầu để sưởi bị nhiễm độc, chúng ta cần phải chia khẩu phần trữ lượng dầu còn thừa từ năm ngoái, Gillette nghĩ.

Gillette chợt cảm thấy cả căn phòng bỗng dường như trở nên ấm hơn.

Anh chợt nhớ đến cảnh tượng hỗn loạn sau các vụ thảm họa thiên tai như cơn bão Katrina. Cướp giật phá hoại. Bệnh hoạn. Cảnh sát và nhân viên chữa lửa không thể làm việc.

Nhưng trong tình trạng đó, sự giúp đỡ từ bên ngoài đổ ập vào. Có những nơi không bị ảnh hưởng tiếp đón các nạn nhân lánh nạn. Vì nhiên liệu vẫn còn nên mọi người vẫn có thể đi lại. Tình trạng khẩn cấp chỉ ở một vùng, không phải ở khắp nơi, anh nghĩ tiếp.

Hauser quay sang Mallory. "Hệ thống tình báo có cho biết là ai làm không? Tôi muốn có bản tường trình mỗi ngày. Anh cần phải coi lại tất cả các nhóm quá khích: về tôn giáo, về môi trường, và về việc chống các công ty dầu hỏa. Tôi muốn có tin tức về các chương trình chiến tranh vi khuẩn ở Iran, Cuba, Bắc Hàn. Các anh không được giấu giếm gì với chúng tôi. Đây là hoàn cảnh tạo dựng sự nghiệp hay phá đi thanh danh. Anh cần phải nhấn mạnh sự thật này với người của anh."

Gillette nghĩ, hắn ta vẫn còn lo lắng về sự nghiệp à?

Mọi người bắt đầu đóng tập tài liệu lại, đẩy ghế đứng lên.

Gillette lên tiếng: "Còn về phía Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh dịch CDC thì sao hả trung tướng?"

"À, bên CDC và bên Quản lý tình trạng khẩn cấp thì rất quan trọng. Lấy cho tôi danh sách nhiên liệu cần có của các bệnh viện và phòng thí nghiệm toàn quốc. Toà Bạch Ốc cần biết các điều kiện tất yếu cho an ninh quốc nội. Điện lực. Vận tải. Chuyên chở bác sĩ tới bệnh viện. Anh cần phải liên hệ với cấp thẩm quyền các tiểu bang."

Gillette phản đối, "tôi tin là người của tôi có thể giúp trong việc xác định lai lich vi khuẩn và tiêu diệt nó."

Hauser kiên quyết trả lời. "Nó tấn công dầu hỏa, không phải con người. Khi nó bắt đầu gây độc tới con người thì vai trò của các anh sẽ được thay đổi."

"Thưa đại tướng, trạng thái của các vi khuẩn đều giống nhau. Chúng ta cần kiểm định tất cả các mỏ dầu. Nếu tôi có thể kể một chuyện, có một vụ bùng nổ dịch tả ở London rất lâu về trước, và..."

Hauser quay đi và nói cho cả nhóm, "Tất cả các anh, cho tôi biết nhu cầu về sắp xếp đi công tác xa, bao gồm cả máy bay và xăng. Công tác sẽ được sắp xếp theo quyền ưu tiên một khi chúng ta xác định được phương tiện vận chuyển đã an toàn. Ai mà sử dụng trái quyền hạn được cấp cho trong chứng minh thư của mình sẽ được xử lý nghiêm khắc nhất, hiểu chưa? Không có ngoại lệ."

Gillette ngắt ngang, "người của tôi có kinh nghiệm theo dõi sự lây lan khắp thế giới."

Hauser nổi cáu: "Nhóm Phản Ứng Cấp Tốc, Gillette, là một đội ngũ có tổ chức. Chúng ta không thể có việc tranh cãi vặt giữa các cơ sở hay các cá nhân muốn giành công trạng, được không?"

Gillette ráng hết sức để kiềm chế cơn thịnh nộ. Anh sẽ cố thêm một lần nữa một tiếng đồng hồ sau. Mẹ kiếp, anh cứ ra lệnh cho người của CDC tới các mỏ dầu. Câu chuyện về dịch tả là câu chuyện đầu tiên bác sĩ Larch kể cho anh, rất có lý và phù hợp trong lúc này. Tạm thời anh sẽ lập cái bản danh sánh cho Hauser. Làm phận sự của mình đã. Nhưng anh cũng sẽ về nhà và bắt đầu gìúp gia đình đương đầu với những ngày khó khăn sắp tới.

Anh nghe đại tá Novak nói: "Trung tướng?"

"Sao hả trung tá?" Giọng của Hauser cũng điềm tĩnh như của cô ta.

"Thưa ngài, tôi gặp trở ngại khi làm việc với người bên nhóm Chiến tranh vi khuẩn. Tôi đã yêu cầu tất cả tài liệu về vi khuẩn và dầu lửa. Bọn họ vẫn chưa trả lời cho tôi biết."

"Cô sẽ có giấy thông lệnh trong vòng hai mươi phút nữa. Cô có cần gì khác thì cho tôi hay."

" Trong trường hợp đó", cô nhẹ nhàng nói, " với tất cả lòng tôn trọng, tôi cũng đồng ý rằng bác sĩ Gillete có thể đóng góp thêm một góc nhìn mới cho cuộc điều tra. Tôi đã làm việc với anh ta trong quá khứ. Anh ấy đưa ra những phân tích mà mọi người có thể bỏ qua. Tôi cũng không ngại phải lắng nghe câu chuyện về bệnh dịch tả của anh ấy, thưa ngài."

Cho dù vấn đề chính trị có lớn đến đâu đi nữa, sự xung đột giữa người với người luôn là một trở ngại. Mọi người trong phòng ngừng thu thập giấy tờ và liếc nhìn Novak rồi đến Hauser, người đã hoàn toàn im lặng, biết rằng mình vừa bị nhét cát vào mồm. Gillette cảm thấy nhịp tim đập nhanh hẳn.

Người của tôi hoàn toàn có thể giúp được.

" Dĩ nhiên là được, đại tá," Hauser nói với Theresa, " Nếu cô cho rằng anh ta quan trọng, anh ấy hoàn toàn có thể cùng theo cô đến Fort Detrick. Sẽ có người làm thay công việc anh ta ở đây."

Gillette nói, "Khi tôi đề nghị giao cho CDC một vai trò trong cuộc điều tra, tôi không có ý là tôi sẽ làm."

"Tôi đã có ý người đó phải là anh," Hauser đáp lại.

Trên màn hình trực tuyến, Theresa như đang nhìn thẳng vào đôi mắt của Gillette. Cũng lúc đó Hauser nghe thấy một tiếng thở gấp bên cạnh. Violet Pell kêu lên: "Tấm bản đồ!"

Anh kinh hoàng vì đã đoán được sẽ nhìn thấy gì khi quay lại, và quả nhiên, một chấm đèn đỏ hiện lên trên màn hình khi anh làm như vậy.

"Thành phố Long Beach, tiểu bang California, là cảng dầu hỏa lớn nhất ở bờ biển Tây," Os Preston cau mày báo cáo.

"Đường ống dẫn dầu Louisiana," đại diện cục tình báo CIA Mallory lên tiếng sau đó một chút, khi chấm đèn thứ nhì hiện lên. Trong vòng vài phút tới, thêm nhiều ánh chớp nhấp nháy như kim châm hiện lên ở ven biển tiểu bang Texas, ở thành phố Tehran, ở Iraq.

Gillette cảm thấy bao tử quặn lại. Anh hiểu tại sao những chấm này hiện lên gần như cùng lúc vậy.

"Nhà Trắng đang loan báo kết quả thử nghiệm cùng một lúc," Gillett nói.

Mặt Osborne Preston hiện tại đã trở nên xám xịt. Đây là lần đầu từ khi đến đây mà ông ta hơi bị mất bình tĩnh.

"Những đường ống này vận chuyển dầu hỏa khắp khu vực phía Nam và phía trung Tây. Nếu chúng ta không thể sử dụng những đường ống này thì chúng ta sẽ không thể cung dấp dầu hỏa được."

Ánh đèn chớp lên. Thêm một chấm đèn hiện lên tại Chicago. Đèn tại London cũng bật sáng trên bản đồ.

Blinkblinkblinkblinkblinkblink. Đèn trên bản đồ bật lên liên tục.

"Thưa trung tướng Hauser?"

Tiếng của trung tá Novak vang lên lần nữa.

"Chúng ta nhận được nhiều kết quả của mẫu nghiệm chính từ nước ngoài," cô ta nói lưng chừng rồi ngừng lại, giống như không muốn nói hết ra những gì mà cô ấy đã nhận được. Như thể là nói ra thì nó sẽ làm cho sự việc trầm trọng hơn .

"Vi khuẩn có ở trong giếng dầu. Nó cũng nằm sâu trong lòng đất."

Bác sĩ Preston gần như té ngửa ra khỏi ghế của ông ta sau khi nghe những lời thông báo này. "Chuyện này không thể nào như thế được."

Sắc mặt Theresa trông có vẻ rất giận. "Giếng dầu Ghawar ở Saudi Arabia đã bị nhiễm độc. Giếng dầu tại Shayba cũng vậy."

Preston giọng khàn đặc nói, "Nhưng Ghawar chỉ sản xuất được một thùng trong mỗi mười hai thùng dầu thô được sử dụng trên trái đất."

Trung tá Novak đọc qua những tên của những giếng dầu mà Gillette trước giờ chưa từng nghe qua bao giờ. "Chúng ta nhận được tin tốt từ giếng dầu Machete tại Venuzuela. Kết quả thử nghiệm báo cáo có vi khuẩn nhưng không nhiều."

Preston lập lại, thì thầm trong miệng. "Không thể nào..."

Gillette đã từng nghe những lời miễn cưỡng phản đối như vậy quá nhiều lần. Bất cứ khi nào có cơn dịch bộc phát xảy ra, trong mỗi tình huống khẩn cấp xảy ra mà anh nghiên cứu qua, một vài vị quan chức cao có thẩm quyền lại là người không có đầu óc suy đoán tưởng thường thốt lên những lời phản đối yếu ớt đó.

"Giếng dầu Samotlor tại Nga cũng đã bị nhiễm độc..."

"Anh có chắc là kết quả thử nghiệm đúng không?" Preston hỏi.

"Nó không phải là một thí nghiệm khó khăn. Ông lấy một mẫu nghiệm chính và đặt nó dưới kính hiển vi."

Gillette nghe Mallory nói. "Năm mươi ngày nữa bắt đầu từ hôm nay là tới mùa đông chết chóc rồi. Chúa tôi! Phải cai dùng (5) dầu sao!"

Bác sĩ Preston hai tay ôm đầu. Ông ta đang moi óc để tìm ra những ý tưởng khả quan hơn. "Nó thật sự chưa tới mức phải cai hay chấm dứt dùng dầu hỏa. Chắc có vài nước không bị nhiễm độc. Và số dự trữ dầu chiến lược đủ dầu để xài trong ba tháng , với điều kiện nếu các đường ống dẫn dầu khác có thể dùng để dẫn dầu đến mọi nơi."

Theresa nói tiếp, " Forcados Yorki tại Nigeria..."

Tấm bản đồ Mecator (6) sáng trưng như là máy kéo ở Las Vegas đang trả tiền cho người trúng giải.

Blinkblinkblinkblinkblinkblink. Đèn trên bản đồ vẫn bật lên liên tục.


------------------------------------------------------------------------------
Ngày thứ Hai đen tối

Tác giả: Scott Reiss


Chương V (phần 3)
Dịch: Nhóm dịch TA
Biên dịch/Biên tập: Ooppss
Nguồn: www.tangthuvien.com





Gillette đã từng nhìn thấy loại bản đồ này, thỉnh thoảng nó được treo ở trong một lều huấn luyện; hay thỉnh thoảng là bản vẽ tay được trải rộng bên trên mui máy xe đang nóng nổ lách tách trong rừng rậm; đôi khi cũng nhìn thấy bản vẽ của nó trên máy vi tính tại Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh dịch (CDC).

Cho dù tấm bản đồ ở bất cứ hình dạng nào, nó luôn luôn biểu thị cho sự đau khổ. Những dấu chấm trên bản đồ đại biểu cho người chết và bị thương; những đường thẳng gạch nối là lộ tuyến của sự lây lan. Những khu vực đã bị nhiễm bệnh tiếp tục lan ra khắp các nước, qua các tuyến di chuyển trên không và trên biển, qua tuyến di chuyển của lạc đà và xe tải, sự lây nhiễm lan rộng làm nỗi sợ hãi dồn nén chặt cho bất kỳ ai khi đang theo dõi những dấu chấm trên bản đồ.

Os Preston thì thầm "Không có sinh vật nào trên trái đất có thể sống sót qua sự thanh lọc này."

"Cho dù nó là thứ gì đi nữa, nó đang hiện diện trên trái đất." Gillete nói

Mỗi lần khi có sự lây nhiễm bùng nổ, chúng tôi tự nghĩ, đây có phải là lần chúng tôi không thể ngăn chặn sự lây nhiễm hay không?

Nhân viên đại diện cho Cơ quan sử lý sự vụ khẩn cấp liên bang(5) nói, "Làm sao chúng tôi có thể bắt đầu điều tra khi chúng tôi không thể di chuyển đi lại trong khu vực?"

Tất cả mọi người đều cảm thấy áp lực của thời gian. Trong vòng năm mươi ngày, nếu họ không tìm ra giải pháp cho vấn đề, mọi thứ có ý nghĩa và giá trị đối với họ: gia đình, người thân yêu, của cải vất chất, và hàng triệu sinh mạng sẽ bị chết dần từng ngày cho tới khi toàn bộ bị tiêu diệt.

Gillete kết luận. "Nó là một loại dịch hạch mới"

Tướng Hauser mệt mỏi thốt lên, "Có lẽ cuối cùng thì bạn nên kể câu chuyện về bệnh dịch tả."

o0o

"Anh đang lái xe mô tô kia. Tấp vào." Giọng viên cảnh sát vang lên trong chiếc còi hụ ra lệnh.

Clayton Cox phản ứng ngay tức thì, hành xử giống như là một công dân tốt. Chiếc xe cảnh sát theo đuôi hắn đã hơn chín phút, bây giờ hắn đã không thể về nhà. Hắn bật tín hiệu xin sang lề bên phải, hắn lượn chiếc xe BMW sát vào lề đường. Hắn bị bắt dừng xe ở phố Reno khu có những cây sồi dọc hai bên đường, cách phố Macomb và nhà của hắn khoảng một cây số rưỡi.

Chiếc xe cơ động của cảnh sát tấp vào lề ngay đàng sau xe hắn.

Đường phố vắng không một bóng xe, chỉ có một vài người bị ngăn lại....

Không có bất kỳ chiếc xe nào di chuyển trên đường phố, chỉ có vài chiếc xe bị chết máy đã được đẩy vào sát lề để chúng không cản trở đường vào nhà hay cản trở lưu thông trên phố Reno. Phố Reno trống trơn. Chỉ thấy có vài chiếc xe câu lưu làm việc tối nay.

Chẳng lẽ mấy tên hàng xóm nhiều chuyện thấy mình rời khỏi nhà gia đình Niles sao? Họ đã gọi cảnh sát à?

Trong không khí ẩm ướt oi bức, tiếng kêu két của cửa xe cảnh sát mở ra thật là rõ ràng. Nhìn về phía sau, hắn thấy một, hai, ba cảnh sát mặc đồng phục bước ra. Một cảnh sát da trắng, và hai da đen; một nam và một nữ.

Tối nay đám cảnh sát bị hư nhiều xe quá, cho nên bọn họ phải tăng số nhân viên cho những chiếc xe còn làm việc được.

Clayton có thể cảm giác được sự rắn chắc âm ấm của khẩu Glock-17 được cài ở sau lưng, nơi khó với tới nhất. Đám cảnh sát bước về phía hắn, tách rời nhau ra để đảm bảo an toàn, và họ sẽ phản ứng lập tức nếu hắn thò tay vào dưới áo.

Cho dù chỉ là thổi chặn xe theo thông lệ, nếu bọn chúng mà nhìn vào hai túi ngay cốp xe, chúng sẽ thấy ngay đống đồ nghề cạy cửa. Nhưng lần này thì không phải là theo thông lệ. Đám cảnh sát sẽ không phí phạm thì giờ trong buổi tối nay.

"Chào ông," viên nữ cảnh sát nói. "Xin ông vui lòng cho xem bằng lái xe."

Dưới chiếc mũ bảo hiểm màu xanh nước biển, Clayton nhìn ra. Hắn là một tay người Ailen tóc đỏ đêm nay, bộ râu rậm màu đỏ, râu mép cũng màu đỏ. Kính áp tròng màu xanh da trời nhạt . Một người Ailen chính cống.

"Tôi thề là tôi đã dừng lại hoàn toàn ở tín hiệu dừng đằng kia,” hắn nói.

Bọn này hỏi xem bằng lái, có nghĩa là mình có thể với lại phía sau lấy nó. Mình có nên lấy khẩu Glock không? Nếu mình làm vậy và bọn chúng gọi điện để kiểm tra bằng lái của mình, bọn cảnh sát khác sẽ tìm đến nhà mình mất.

Hắn trở nên khúm núm như thể bị dọa nạt bởi uy quyền. Đó là thái độ mà hắn đã đóng thường xuyên hồi chỉ là một thằng bé ở trong trại tập trung, sau khi hắn đánh đập một đứa trẻ khác, ăn trộm một thứ gì, hay đâm một người để tự vệ.

"Xin lỗi nếu tôi đã làm một điều gì đó sai, thưa cô."

"Ông không biết đêm nay có lệnh giới nghiêm hay sao?" người nữ cảnh sát nói, nhưng không có vẻ gì gay gắt. Vẻ tò mò thì đúng hơn. Một tín hiệu tốt.

"Vâng ,thưa cô. Tôi có xem trên tivi . Tôi ở nhà và tôi biết tôi không nên ra ngoài. Nhưng mẹ tôi bị hết thuốc và bà vừa gọi điện cho tôi. Chứng hen suyễn của mẹ tôi. Bà cần một lọ thuốc xông mũi."

Viên cảnh sát trẻ nhất trong nhóm, da trắng, đi ngược về chiếc xe cảnh sát với bằng lái xe của Clayton trên tay.

Nếu mình muốn bắn người, tốt hơn cả là làm điều đó trước khi hắn gọi về trụ sở.

Clayton tiếp tục ba hoa lảm nhảm về tiếng thở khò khè của người mẹ tội nghiệp của mình, hắn nói tiếp: “Và khi mẹ tôi nhìn thấy vụ máy bay rơi trên TV, hình ảnh những con người trong máy bay từ trên trời rơi xuống đó, bà ta sợ hãi và không còn thở nổi nữa…”

Clayton đang nghĩ: "Cái nòng giảm thanh chết tiệt lại không ở trên súng. Nếu mình bắn thì những người khác có thể thò ra ngoài cửa sổ nhìn mất."

Nhưng cũng lúc đó viên nữ cảnh sát gật đầu với vẻ thông cảm.

“Anh đã mua xăng ở đâu?” cô ta hỏi.

“Dạ cô hỏi gì?”

Viên cảnh sát da đen nói: “Xăng xe của anh, Clay. Chúng tôi hỏi để chúng tôi có thể mua những loại xăng tốt khi các trạm xăng mở cửa vào sáng mai. Cảnh sát trưởng bảo chúng tôi hỏi tất cả mọi người”

“Tên tôi là Clayton chứ không phải Clay” – hắn nói. Hắn rất ghét mọi người gọi sai những cái tên giả của hắn. Những cái tên đó có ý nghĩa. Chúng đặc biệt và quan trọng đối với ông cụ năm đời của hắn.

“Xin lỗi nhé, Clayton,” viên cảnh sát da đen nói trong khi Clayton đang cố gắng lục trí nhớ tìm một ngã tư mà hắn đã nhìn thấy có trạm đổ xăng. Theo lời chỉ dẫn của cha đỡ đầu, xăng trong cái xe của hắn là từ số xăng đã được mua và tích trữ trong ga-ra từ mấy tuần trước.

“Ngã tư Tunlaw và Wisconsin” Clayton nói khi nhớ tới một trạm đổ xăng ở Georgetown hắn vừa đi qua lúc đêm.

Viên cảnh sát da trắng quay trở lại từ chiếc xe cảnh sát và trả bằng lái lại cho Clayton. Bằng lái là thật, không có tiền án. Cha đỡ đầu của hắn đã đưa cho hắn cái bằng này. "Bị bắt vì dùng bằng lái xe giả là một tội nghiêm trọng," cha đỡ đầu đã từng nói vậy.

“Clayton, anh không được lái xe nữa sau khi đã về đến nhà,” viên nữ cảnh sát xua ngón tay trỏ nói. “Không một ai được đi ra ngoài đường ngày mai cho đến khi chúng tôi giải quyết được vấn đề. Tối nay chúng tôi chỉ cảnh cáo, nhưng ngày mai thì sẽ phạt.”

- Tất nhiên, nếu chúng tôi còn có thể đi làm vào ngày mai. - viên cảnh sát da đen nói thêm.

Clayton nghe thấy tiếng tim hắn đập lúc ba viên cảnh sát quay trở về xe của họ. Bọn chúng đã biết tên của mình, và cũng đã gọi kiểm tra bằng lái của mình. Có gì nguy hiểm đáng lo trong chuyện này không nhỉ?

Một chút, không nhiều lắm. Thôi kệ nó vậy.

Clayton ngồi lên xe và nổ máy. Hắn về đến nhà năm phút sau đó. Hắn vào phòng khách và bật TV lên, đến một trong số những kênh chương trình buổi sáng nhạt nhẽo.

- Tổng thống có bài phát biểu đến toàn thể dân chúng lúc chín giờ. – cô gái dẫn chương trình thông báo, trông dáng vẻ đến là sợ hãi.

Hắn thông báo cho cha đỡ đầu rồi lên lầu đi ngủ, bởi vì sẽ có rất nhiều công việc phải làm trong những tuần kế tiếp. Trong giấc mơ, hắn thấy mình trở lại trại tập trung lúc 11 tuổi, bị bao vây bởi những đứa con trai cùng lứa. Chúng chọc ghẹo, ném đá và la hét những cái tên tục tĩu gọi hắn, rồi cười nhạo về cái chết của mẹ hắn.

Hắn chống lại, đá ngược một thằng té lăn quay, nhưng những đứa khác lại xông vào. Và sau đó đám con trai dường như bay rời khỏi hắn. Chúng bị kéo rời ra. Và trong giấc mơ cha đỡ đầu của hắn đang đứng đó, mỉm cười với hắn, xoa dịu vỗ về hắn và nói cho hắn biết hắn thực sự là ai, hắn đang mang trong người dòng máu nào, dòng máu của một chiến sĩ vĩ đại. Giấc mơ thật buồn cười, vì sự thật hắn chỉ gặp được cha đỡ đầu của hắn sau khi hắn bỏ trốn trại tập trung.

Giấc mơ kết thúc thật đẹp. Nó kết thúc với cảnh Clayton, cha đỡ đầu và ông cụ năm đời của hắn, trong chiếc áo thụng trắng, đang đi dọc theo vách núi cạnh qua nhà của cha đỡ đầu.

Clayton Cox, giữa những đống đổ vỡ, đã ngủ một giấc thật sâu và êm đềm hạnh phúc, sẵn sàng cho mục tiêu kế tiếp mà cha đỡ đầu hắn sẽ chỉ định.



(1) encrypted and scrambled là hai kỷ thuật tối tân dùng để chống bị nghe lén khi trao đổi qua điện thoại
(2) loai nhà split-level có hai mức sàn khác nhau trong nhà, mổi mức cao khác nhau vài bước chân. Thí dụ như sàn phòng khách thấp hơn sàn nhà bếp vài bậc thang.
(3) "Uncle Sam" là từ để gọi nôm na chính phủ Mỹ. Nhân vật "chú Sam" này có khuôn mặt giống tổng thống Abraham Lincoln. Khuôn mặt gầy khắc khổ, dưới cằm có một túm râu, mủi cao, mắt hơi trợn. Trên đầu chú Sam đội một cái mủ nồi có hình cờ của quốc gia hoa kỳ.
(4) "the Rebels" là tên của đội tuyển thể thao trong trường phổ thông trung học. Có lẻ là đội bóng bầu dục hoặc bóng chày. Áo thun đồng phục của đội tuyển có mang tên của đội tuyển.
(5) cold turkey: từ lóng để diễn tả sự cai nghiện hay chấm dứt một thói quen, một tập tục
(6) Mercator map: bản đồ bề mặt của hình cầu được vẽ ra trên một mặt phẳng được trình làng bởi nhà địa lý học, nhà vẽ bản đồ người Bỉ tên Gerardus Mercator.
(7) FEMA (Federal Emergency Management Agency) hay "Cơ quan sử lý sự vụ khẩn cấp liên bang"

------------------------------------------------------------------------------

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

[Kỳ phổ] 19 kifu của Shusaku

Bản Nhân Phường Shusaku Phần I: Cậu bé thần đồng Cách đây đúng 145 năm, ngày 3-9-1862, kì thủ cờ Vây huyền thoại Shusaku đã vĩnh viễn ra đi trong sự tiếc thương vô hạn của mọi người, kể cả những người không hâm mộ cờ Vây. Bản Nhân Phường Shusaku tên thật là Torajiro Kuwahara, ông sinh ngày 6-6-1829 tại đảo Inno, ngày nay là thành phố Innnoshima của Nhật Bản. Gia đình Torajiro không hề có truyền thống về cờ Vây. Cha ông, Wazo Yasuda là một thương gia khá giả của Inno. Mẹ ông, bà Kame Kuwahara chỉ là một người yêu thích cờ Vây nhưng chơi rất kém. Những câu chuyện kể lại rằng khi mang thai Torajiro, bà Kame rất thường xuyên chơi cờ. Và khi cậu bé ra đời, mỗi khi dỗ dành con, bà lại dúi vào đôi tay bé bỏng những quân cờ Vây (bà này chắc không sợ con trai mình nuốt luôn quân cờ hay sao ấy?!). Thế là cậu bé không khóc nữa. Năm Torajiro lên 4 tuổi, bà Kame bắt đầu dạy con chơi cờ Vây, nhưng chỉ là những nước đi cơ bản. Năm lên 5 tuổi, tại lễ hội mùa thu năm 1834, ông Wazo đưa Toraji

7 Phần mềm miễn phí và 1 số website Twitter dành cho quản lý trực tuyến của bạn

Link đăng ký: https://twitter.com/ Link Twitter của tôi: https://twitter.com/nguyenquochung Lần mò kiếm mấy cái soft cho con Chym của mình ta kiếm ra trang này http://www.twitip.com. Nhưng lười dịch quá. Mấy phần mềm này cũng khá dễ sử dụng. Mọi người tự mò nhe. *Software   Dưới đây là bảy phần mềm ứng dụng phổ biến nhất mà bạn có thể sử dụng để dễ dàng theo kịp với Twitter (và phổ biến các mạng khác), ngay cả khi bạn không thể được kết nối liên tục. 1. Twitterberry - Nếu bạn có một Blackberry, bạn có thể sử dụng miễn phí Twitterberry ứng dụng để gửi trực tiếp đến Twitter. 2. Tweetie  - Một ứng dụng tuyệt vời để quản lý của bạn tweets từ iPhone của bạn 3. SocialToo  - Ngoài Twitter, SocialToo cũng làm việc với Facebook, Identi.ca, và RSS. 4. Twitterfox - Sử dụng trình duyệt Firefox để quản lý tweets của bạn và xem khi nào bạn bè của bạn đã cập nhật. 5. Tweet All About It 6. PowerTwitter 7. EventBox - $ 15 hình như nó tính phí, nhưng khá rẻ *Website  -          Twit

Truyện tranh cực kì 18+

Chưa coi hết đừng có hiểu lầm nha =))